Khi Ông Mô-sê, vị đại ngôn sứ
và thủ lãnh cuộc Xuất Hành lịch sử,
bước đến xem bụi gai rực lửa,
thì lệnh truyền của Thiên Chúa
lập tức vang lên như sấm rền:
“Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra,
vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh” (St 3:5).
và thủ lãnh cuộc Xuất Hành lịch sử,
bước đến xem bụi gai rực lửa,
thì lệnh truyền của Thiên Chúa
lập tức vang lên như sấm rền:
“Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra,
vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh” (St 3:5).
Tất cả mọi người, mọi tổ chức, mọi định chế,
mọi quyền lực kinh tế, chính trị phàm tục,
đều phải biết giới hạn của mình
trước những thực tại linh thánh chỉ dành riêng
cho một mình thẩm quyền của Thiên Chúa.
Trong những vùng đất thánh đó, mái ấm gia đình,
ngôi đền thờ bảo vệ ơn đời sống của con người,
phải được tôn trọng như một nơi bất khả xâm phạm,
nơi con người phải dừng chân, cởi dép, quỳ gối, cúi đầu.
mọi quyền lực kinh tế, chính trị phàm tục,
đều phải biết giới hạn của mình
trước những thực tại linh thánh chỉ dành riêng
cho một mình thẩm quyền của Thiên Chúa.
Trong những vùng đất thánh đó, mái ấm gia đình,
ngôi đền thờ bảo vệ ơn đời sống của con người,
phải được tôn trọng như một nơi bất khả xâm phạm,
nơi con người phải dừng chân, cởi dép, quỳ gối, cúi đầu.
Lm. P. X. Nguyễn Văn Nhứt, OP.
Mạng Sống Con Người Trong Cơn Khủng Hoảng Toàn Diện
Trước nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loại thực vật, động vật trên hành tinh
này, các tổ chức quốc tế bảo vệ và bảo tồn sinh vật quý hiếm được thành lập và
hoạt động tích cực, chấp nhận không giới hạn mọi tốn kém công của, chỉ để tránh
cho hậu thế một ngày nào đó khi muốn xem hình dáng những loài thực động vật nói
trên, khỏi buộc lòng phải vào bảo tàng cổ sinh vật học như một lựa chọn độc nhứt.
Với viễn kiến được cảm hứng của Chúa Thánh Thần, Đấng
Ban Sức Sống, Hội Thánh đặc biệt quan tâm đến một nguy cơ tuyệt chủng khác gắn
chặt vào lẽ tồn vong của nhân loại: tuyệt
chủng ơn đời sống con người.
Điều này có nghĩa là, trừ phi tìm ra được một giải
pháp hữu hiệu và kịp thời, nhân loại sẽ sớm phải đối diện với nạn tuyệt chủng
theo hai phương diện: một là loài người sẽ hoàn toàn biến mất khỏi sân chơi vũ
trụ; hai là con người phải biến đổi thành một chủng loại khác để sinh tồn.
Thật vậy, có vô vàn vô số lý do khiến mối bận tâm
nói trên trở thành xác thực và cấp bách.
Thứ nhứt là do khủng hoảng môi trường sống. Tình trạng
ô nhiễm không khí, nước uống và thực phẩm đã đến mức báo động đỏ. Con người
đang thở một bầu độc khí dầy đặc bụi khói hóa chất, bom đạn thải ra mỗi ngày.
Con người đang uống một dòng nước nhung nhúc khuẩn độc và siêu vi gây đủ mọi thứ
bịnh nan y. Con người đang ăn cơm, thịt, cá, rau, củ, quả tẩm thuốc độc, vì được
nuôi trồng, chế biến toàn bằng hóa chất nguy hiểm đối với sức khỏe con người.
Tác hại của độc chất trên môi trường sống còn kéo dài đến nhiều thế hệ tương
lai.
Thứ hai là do khủng hoảng môi trường văn hóa. Khác với loài vật vốn chỉ có đời sống vật chất
theo bản năng tự nhiên, con người còn có đời sống văn hóa với nhu cầu thiết yếu
cho bước phát triển nhân vị và phẩm giá.
Nhu cầu này chẳng những đang lùi xuống hạng thứ yếu, nhưng còn bị đầu độc
và hủy hoại bằng những sản phẩm phản văn hóa, cổ xúy bạo lực, thù hận, thỏa mãn
lạc thú bản năng, suy tôn ý thức hệ duy vật.
Thứ ba là do khủng hoảng môi trường đạo đức. Tình
trạng mất cân đối giữa một bên là việc đầu tư “khủng” cho phát triển kinh tế
hàng hóa, xây dựng xã hội văn minh vật thể hưởng thụ, và bên kia là quyết định
cắt giảm tối đa nỗ lực giáo dục nhân bản, bảo tồn các giá trị luân lý, khiến
con người càng ngày càng giảm thiểu và đánh mất cảm thức về thiện ác, về trách
nhiệm luân lý, ngộ nhận về quyền tự do của lương tri, nghèo đói và lạc hậu về
nhân phẩm và nhân quyền.
Sau cùng, nhưng lại hết sức quan trọng, là do khủng
hoảng về môi trường tâm linh và tôn giáo. Một đàng, những tiến bộ vượt bậc
trong khoa học, kỹ thuật khiến con người tưởng như mình đã đạt tới đỉnh điểm của
mọi khát vọng - vật chất cũng như tinh thần - do đó có khả năng tự làm chủ đời
mình, tự quyết định lẽ sống còn của mình, để rồi - như một hệ lụy tất yếu -
thái độ ngạo mạn ấy đẩy con người tới chỗ gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời,
khỏi cõi sâu lắng, linh thiêng của lòng mình. Đàng khác, con người vẫn phải đối
diện với một thực tế kép: thứ nhứt, con người rốt cục phải rất đau đớn thú nhận
biết bao bất toàn, bất lực trong cố gắng chế ngự chính bản thân mình;[1] thứ hai, bởi vì không thể làm ngơ cơn đói khát tâm
linh luôn gào thét trong tâm hồn mình,[2] con người phải liên tục tự đánh lừa mình, bằng
cách đúc tạc ra đủ mọi thứ tượng bò vàng[3] - những tôn giáo nhân tạo - như cách chị bảo mẫu
nhét vội cái núm vú bằng nhựa vào miệng đứa trẻ để cháu khỏi quấy vì vắng mẹ.
Tình Trạng Dễ Bị Thương Tổn Của Mạng Sống Con Người
Trong một xã hội bị khủng hoảng sâu rộng như hiện
nay, mạng sống của con người, nhứt là trẻ em và người già yếu, bịnh tật, trở
thành hết sức mong manh, bị khinh miệt và xâm phạm.
Một xã hội chỉ chú trọng đến thành tựu kinh tế, tìm
cách thụ hưởng văn minh vật chất như đích điểm của cuộc sống con người, tất
nhiên phải ưu đãi chăm lo cho những ai còn có khả năng lao động, để sản xuất ra
thêm nhiều của cải, theo chính sách cho bò ăn no chỉ để kéo cày hoặc để vắt sữa.
Những người khỏe mạnh, giàu có và quyền lực biết
dùng đủ mọi cách thức họ sở hữu để vui sống một cuộc đời vương đế, từ khi sinh
ra cho đến lúc lìa đời, trên nhung lụa đắt giá và giữa yến tiệc linh đình, thừa
mứa rượu thịt.
Thành phần còn lại, tuy chiếm đa số trong xã hội,
nhưng lại không có tài sản, không có quyền lực, không có tiếng nói, đều bị loại
ra khỏi sân chơi cuộc đời. Những người mất sức lao động, những phụ nữ và trẻ em
- nhứt là các thai nhi - phải chịu chung số phận là sống hay chết đều tùy ở
lòng hảo tâm - một phẩm chất càng ngày càng teo tóp và vô cùng quý hiếm - của
giai cấp đang thống trị thế giới. Bức tranh tương phản giàu nghèo - giữa người
ăn mày La-da-rô và tay trọc phú[4] - chưa bao giờ đậm nét và xác thực đến kinh hoàng,
nhức nhối như lúc này. Những mụn bánh -
những điều kiện tối thiểu của một cuộc sống xứng phẩm giá con người - được bố
thí nhỏ giọt, thường bị từ chối, bị cướp đoạt.
Trong một xã hội đã sụp lún mọi nền tảng nhân bản
và tâm linh, thân phận con người - cả giai cấp ăn trên ngồi trốc lẫn kẻ mạt hạng
dưới đáy xã hội - đều bi đát và đáng thương như nhau. Kẻ này thì bị tước đoạt
quyền được sống như con người, còn kẻ nọ thì tự đánh mất phẩm giá cao quý của
con người, khi chọn lấy lối sống theo bản năng, theo thú tính, mạnh được yếu
thua, và còn tệ hại hơn hành động của thú dữ ăn thịt đồng loại nữa, khi sống trục
lợi trên mồ hôi nước mắt, trên thân xác, và trên bao nỗi bất hạnh của tha nhân.
Để sống sót, người yếu phải thu mình lại, chui rúc
vào hang hốc, ẩn náu trong xó kẹt tăm tối của cuộc đời, che giấu đi căn tính
con người, quên đi phẩm giá và quyền làm người để sống gần với kiếp cầm thú,
sâu bọ.
Cũng do hết sức bận tâm bảo vệ địa vị và quyền lợi
của giai cấp mình, người có thế lực càng ngày càng mài sắc hơn nanh vuốt, tạo
nên một cung cách hành xử đặc trưng của loài lang sói mang bộ mặt người.
Tình trạng xã hội con người vốn đã phân hóa trầm trọng
lại còn bị kích bẫy thêm do loại triết học định hình con người như một sinh vật
hiếu chiến, tự bản chất có máu đấu tranh không khoan nhượng một mất một còn.[5] Thậm chí,
người ta còn vận dụng cả một hệ thống giáo lý nào đó để trường cửu hóa tình trạng
phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp bẩm sinh, do số trời tiền định,
không thể và không được phép thay đổi, vì chính Thiên Chúa quyết định cho ai
sinh vào giai cấp nào thì phải chấp nhận suốt đời ở trong giai cấp ấy.[6] Theo quan
niệm như vậy thì tùy số kiếp “Bắt phong
trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao.”[7] Thân phận con người quả là khốn khổ, chẳng có
nghĩa lý gì trong vũ trụ này, và mạng người, cuộc sống con người trở thành rẻ mạt
như bèo, phù du cát bụi gì đâu!
Mạng Sống Con Người Theo Quan Điểm Ki-tô Giáo
Con người có mặt trong vũ trụ càn khôn này không
như một điều ngẫu nhiên, tình cờ, nhưng là do chủ ý của Thiên Chúa, Đấng đích
thân tác tạo con người theo hình ảnh của mình,[8] để đặt tác phẩm ưng ý này vào tâm điểm của công
trình sáng tạo,[9] khiến cho tất cả đột nhiên bừng sáng, vô cùng sống
động, hết sức đáng yêu, đến nỗi Thiên Chúa cảm thấy hoàn toàn hài lòng, mãn ý
mà thốt lên “Rất tốt đẹp!”[10]
Thiên Chúa trọng đãi con người,
trao cho con người quyền thống trị trên toàn thể tạo thành.[11] Có thể nói, vì yêu thương con
người mà Thiên Chúa sáng tạo nên vũ trụ càn khôn này. Toàn thể tạo thành chỉ có
ý nghĩa khi được cắt đặt phục vụ đời sống con người, giúp con người hoàn thành
ơn gọi phụng sự Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay, trên cõi đời này, và đạt tới
cuộc đoàn tụ vĩnh viễn với Đấng Thiên Phụ Vô Cùng Yêu Mến. Tiềm tàng trong con
người vừa là Hình Ảnh, vừa là Vinh Quang của Thiên Chúa.
Do vị trí vô cùng quan trọng của con người trong
toàn bộ kế sách Thiên Chúa hoặch định, việc bảo vệ mạng sống con người được quy
định trong Điều Thứ Năm của Thập Giới.[12]
Thiên Chúa là Chúa Tình Thương,[13] là Chúa của người sống,[14] là Đấng không tạo ra cái chết,[15] Người muốn cho con người được sống thật sung sức.[16]
Sau khi sáng tạo con người, chẳng những Thiên Chúa
ban cho họ được sống, mà Người còn trao cho họ quyền cộng tác với Người trong
công cuộc bảo tồn và phát triển đời sống.[17] Thiên Chúa thực hiện chương trình ban ơn mạng sống
cho nhân loại khi sáng tạo con người có nam có nữ,[18] tác hợp họ thành vợ chồng, để xây nên gia đình đầu
tiên trên địa cầu.[19]
Gia Đình Là Đền Thờ Bảo Vệ Đời Sống Con Người
Giáo Huấn Xã Hội Của Hội Thánh tuyên bố:
Tự bản chất thì tình yêu vợ chồng luôn sẵn sàng đón
nhận đời sống. Vốn là một sinh vật được
kêu gọi phải lên tiếng công bố lòng nhân hậu và đặc tính phong phú của Thiên
Chúa, nên phẩm giá của con người xuất hiện trọn vẹn trong nhiệm vụ truyền
sinh. Tuy về phương diện sinh học, vai
trò làm cha mẹ của con người cũng giống như vai trò của các loài vật khác trong
thiên nhiên, nhưng vai trò làm cha mẹ của con người có đặc tính rất quan trọng
và độc nhứt vô nhị vì khả năng cưu mang hình ảnh của Thiên Chúa. Hình ảnh này là nền tảng để gia đình được xây
dựng thành một cộng đoàn của đời sống con người, một cộng đoàn của các nhân vị,
hiệp nhứt với nhau trong tình yêu.
Việc truyền sinh mô tả rõ ràng vị thế chủ động của
gia đình trong xã hội và thúc đẩy tính năng động của tình yêu, của tinh thần
liên đới giữa các thế hệ, và các thế hệ này trở thành nền tảng để xây dựng xã hội. Chúng ta cần nhận ra nơi mỗi nhân vị vừa mới
chào đời một phần đóng góp rất ý nghĩa cho công ích của xã hội. Mỗi một đứa trẻ “trở thành một quà tặng cho
các anh chị, cho cha mẹ, và cho cả gia đình em.
Cuộc sống của em trở thành tặng phẩm cho chính bậc sinh thành là những
người đã trao ban cho em cuộc sống, khiến họ không thể không cảm nhận được em
đang hiện diện, đang chia vui sẻ buồn trong cuộc đời của họ, và đang góp phần
vào công ích của họ và của cộng đoàn gia đình.[20]
Qua thông điệp nói trên, Hội Thánh nhấn mạnh ý
nghĩa và vai trò của gia đình nơi cha mẹ đón nhận cuộc sống của một con người,
nâng niu chăm sóc với lòng yêu thương, kính trọng và tri ân, coi đó như một quà
tặng của Thiên Chúa ban cho cả gia đình.
Thiết nghĩ, cần chú ý đến 5 điểm căn bản sau đây:
a) Tình Yêu Vợ Chồng Tự Bản Chất Luôn Đón Nhận Ơn Đời
Sống Con Người
Gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân. Hôn nhân theo ý định của Thiên Chúa là cuộc sống
chung của một người nam và một người nữ, hiệp nhứt trong tình yêu không chia sẻ
và bất khả phân ly.[21] Tình yêu đó nhứt thiết phải nở hoa kết trái, như lời
chúc phước của Đấng Tạo Hóa trên đôi vợ chồng, ban cho họ vinh dự được cộng tác
vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.[22] Quyền năng
này là của một mình Thiên Chúa, và chỉ được Thiên Chúa ủy thác cho một mình người
cha và người mẹ: đó là quyền được sinh ra Hình Ảnh Của Thiên Chúa.
Trừ phi vì lý do bịnh tật hoặc tai nạn gây ra tình
trạng vô sinh, mọi hình thức từ chối nhiệm vụ truyền sinh trong đời sống hôn
nhân là trái quy luật thiên nhiên và phụ bạc lòng tốt của Thiên Chúa.
b) Vai Trò Làm Cha Mẹ Của Con Người
Cao Quý Vì Diễn Đạt Sống Động Hình Ảnh Thiên Của Thiên Chúa
Bản năng sinh tồn và truyền sinh nơi con người cùng
chia sẻ nhiều điểm chung với các loài vật khác.
Nhưng chỉ có con người mới ý thức được rằng sinh vật bé bỏng người mẹ
cưu mang, sinh hạ và chăm sóc, dưỡng nuôi cũng là một con người giống như mình,
cùng có trọn vẹn phẩm giá của một con người như mình, cũng là hình ảnh của
Thiên Chúa như mình. Cung cách cha mẹ chăm lo nuôi nấng, dưỡng dục đứa con là
hành vi nhân linh cao đẹp vượt quá quy luật tự nhiên của bản năng, vì được thúc
đẩy bởi tình phụ tử và mẫu tử - nguồn cảm hứng dạt dào vô tận cho bao tác phẩm
nghệ thuật - là bản sao sắc nét của Tình Yêu Thiên Chúa, Đấng sáng tạo con người
giống hình ảnh của Người, và luôn chăm lo cho con người, “nâng như nâng trứng,
hứng như hứng hoa”, cẩn trọng hết mức “tựa con ngươi mắt Chúa.”[23]
c) Gia Đình Là Cộng Đoàn Của Các Nhân Vị Hiệp Nhứt
Trong Tình Yêu
Nhìn thấy một bầy đàn thú vật, chúng ta thường dùng
chính khái niệm gia đình của con người - cha mẹ, con cái - để minh họa những
thái cử của loài vật.[24] Song thực ra, chỉ có con người mới có đời sống gia
đình. Ngôi nhà nơi gia đình sinh sống không đơn giản là một mái che mưa nắng,
nhưng trên hết đó là một mái ấm, một điểm quy tụ những con người cùng chia sẻ một
huyết thống, một tình yêu, một sinh mạng, một số phận, một hoài niệm, một ước
mơ. Mỗi một con người, với phẩm giá của một nhân vị, sinh ra, lớn lên, và sẽ chết
đi, với biết bao mối tương quan thắm thiết và sâu đậm ấy ràng cột đời mình khôn
ngơi, khôn nguôi, không sao dứt bỏ, với mọi thành viên trong gia đình.
d) Nhiệm Vụ Truyền Sinh Khẳng Định Vị Trí Chủ Động Của
Gia Đình Trong Việc Xây Dựng Xã Hội
Thật không sao có thể tách rời ý tưởng xây dựng xã
hội ra khỏi thực tế hiện hữu của gia đình. Không có gia đình, xã hội có thể là
nơi chen chúc những sản phẩm của các xưởng chế
tạo người máy, hoặc của các phòng thí nghiệm nhân bản vô tính. Đạo quân rô-bốt
khổng lồ ấy có thể làm được tất cả mọi việc, nhanh hơn, mạnh hơn, khéo hơn, hiệu
năng hơn rất nhiều lần so với con người bằng xương bằng thịt, chỉ trừ một điều
là chúng không bao giờ có thể xây dựng được một xã hội nhân văn của con người.
Điều này cũng hàm chứa nguy cơ là chúng cũng sẵn sàng chém giết, hủy diệt trăm
ngàn lần tàn nhẫn hơn, máu lạnh hơn.
Do đó, gia đình có một sứ mạng cao cả, bất khả thay
thế, trong việc lưu truyền dòng giống con người. Chính những con người xuất
thân từ gia đình - môi trường tự nhiên đào tạo nên nhân vị và nhân phẩm chuẩn mực
- là chủ thể xây dựng, bảo vệ và phát triển xã hội loài người. Vì thế, thật không sai lầm khi cho rằng gia
đình luôn đóng vai trò chủ động và quyết định trong tiến trình hình thành một
xã hội nhân văn, văn hóa và văn minh của con người, do con người, và vì con người.
e) Một Đứa Trẻ Phải Được Đón Nhận Như Quà Tặng Của
Thiên Chúa Cho Cha Mẹ Và Mọi Thành Viên Trong Gia Đình
Ngoại trừ trường hợp gia đình lâm cảnh hiếm muộn,
nơi mọi người đều tha thiết cầu khấn và mong chờ đứa trẻ ra đời để đem lại niềm
vui, sức sống và hy vọng cho tương lai dòng tộc, thì việc xuất hiện của một
thành viên mới trong gia đình không mấy khi được nhìn nhận đúng ý nghĩa. Không
ít trường hợp đứa trẻ bị đối xử như một kẻ không mời mà đến, nếu không bị xua
đuổi, loại bỏ, thì cũng trở thành một gánh nặng cực chẳng đã cha mẹ phải mang
vác, một miệng ăn mọi người phải giảm bớt khẩu phần để cứu đói. Tóm lại, đứa trẻ
hầu như luôn luôn là đối tượng của lòng bác ái từ thiện từ các thành viên trong
gia đình.
Giáo Huấn Xã Hội khẳng định một quan điểm đúng đắn,
dựa trên truyền thống Thánh Kinh Ki-tô Giáo, theo đó, Ơn Đời Sống - tiêu biểu
nơi một đứa trẻ vừa chào đời -luôn luôn là một quà tặng vô giá, song hết sức
hào phóng và hoàn toàn biếu không, do Thiên Chúa ban cho cha mẹ và mọi người
trong gia tộc. Đã là quà tặng, mà là quà tặng của Thiên Chúa, Đấng Yêu
Thương bằng hành động không ngừng ban phát sức sống cho muôn vật muôn loài, thì
con người chỉ có một cách đáp ứng hợp tình hợp lý là cung kính lãnh nhận với
lòng tri ân chân thành và thẳm sâu, để - với một sinh mạng con người trong vòng
tay cha mẹ, tuy còn bé bỏng, mong manh, nhưng chất chứa bao tiềm năng vĩ đại
khôn dò - mãi mãi nghiền ngẫm, cảm kích và chúc tụng Đấng là Tác Giả của Quà Tặng
Đời Sống.
Gia Đình: Ngôi Đền Thờ Bảo Vệ Ơn Đời Sống
Con Người
Con Người
Khi Ông Mô-sê, vị đại ngôn sứ và thủ lãnh cuộc Xuất
Hành lịch sử, bước đến xem bụi gai rực lửa, thì lịnh truyền của Thiên Chúa lập
tức vang lên như sấm rền: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra. vì nơi ngươi đang đứng
là đất thánh.”[25]
Tất cả mọi người, mọi tổ chức, mọi định chế, mọi
quyền lực kinh tế, chính trị phàm tục, đều phải biết giới hạn của mình trước những
thực tại linh thánh chỉ dành riêng cho một mình thẩm quyền của Thiên Chúa.
Trong những vùng đất thánh đó, mái ấm gia đình, ngôi đền thờ bảo vệ ơn đời sống
của con người, phải được tôn trọng như một nơi bất khả xâm phạm, nơi con người
phải dừng chân, cởi dép, quỳ gối, cúi đầu.
Cứ xem khi Thiên Chúa muốn trở thành một con người
thật sự, Người đã chọn được sinh ra, được nuôi dưỡng, được giáo dục làm người
trong môi trường gia đình của con người, như bất kỳ một con người phàm tục nào
trong những kẻ phàm phu tục tử chúng ta,[26] thì đủ thấy giá trị thánh thiêng của gia đình là một
điều hiển nhiên biết chừng nào!
[1] Xin coi Rm
7:14-24.
[2] Thánh
Au-gu-ti-nô tin rằng: Thiên Chúa đã sáng tạo
con người dành riêng cho Chúa, nên chỉ có Thiên Chúa mới thỏa mãn mọi khát vọng
của con người.
[3] Từ câu truyện trong Sách Xuất Hành 32:1-6, “con bò vàng”
là biểu tượng của việc thờ các thần thánh giả trá do con người tạo ra.
[4] Xin coi Lc
16:19-21.
[5] “Đấu tranh giai cấp” là một con chủ bài của thuyết Mác-xít
để xây dựng xã hội cộng sản bằng cách mạng bạo lực.
[6] Ấn Giáo dạy rằng Thượng Đế quy định xã hội có 4 hạng người:
1) Brahmins: giới tư tế, học giả, chuyên nghiên cứu và giảng sách thánh; 2)
Kshatriyas: giới chiến binh, cầm quyền cai dân trị nước; 3) Vaishyas: giới
thương gia, thợ chuyên môn; 4) Shudras: nông dân, công nhân không có tay nghề. Sau này, Ông Mahatma Gandhi thêm vào 5)
Pariah: giới cùng đinh mạt dân.
[8] Xin coi St 1:27; 2:7.
[9] Xin coi St 2:8.
[10] Xin coi St 1:31.
[11] Xin coi St 1:28; 2:15.19; Tv 8:4-7.
[12] Xin coi Xh
20:13.
[13] Xin coi 1
Ga 4:16.
[14] Xin coi Mt
22:32.
[15] Xin coi Kn
1:13.
[16] Xin coi Ga 10:10.
[17] Xin coi St 1:28.
[18] Xin coi St 1:27.
[19] Xin coi St 2:18.21-24.
[23] Xin coi Đnl 32:10; Mt 6:25-34; 10:29-31.
[24] Một thí dụ điển hình là câu truyện dẫn tới thành ngữ
“đoạn trường - đứt ruột.” Người thợ săn tình cờ gặp thấy vượn mẹ đang cho con
bú. Ông giương cung bắn trúng con mẹ. Biết
mình sắp chết, vượn mẹ trao con cho vượn bố ẵm đi trốn rồi buông tay rớt xuống
đất. Khi người ta xẻ thịt con vượn mẹ
thì thấy ruột nó đứt thành 9 khúc vì nỗi đau phải chia lìa “chồng con”.
[25] Xh 3:5.
[26] Xc Dt 4:15.
Đăng nhận xét