Hôn nhân là một giao ước,
vừa tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa
vừa làm cho Chúa hiện diện trên trần gian.
Giao ước này không chỉ là sự khế ước giữa hai người nam – nữ,
nhưng là giao ước Hôn nhân
hội nhập giao ước giữa Thiên Chúa với con người,
và tình yêu vợ chồng đích thực
được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa.
vừa tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa
vừa làm cho Chúa hiện diện trên trần gian.
Giao ước này không chỉ là sự khế ước giữa hai người nam – nữ,
nhưng là giao ước Hôn nhân
hội nhập giao ước giữa Thiên Chúa với con người,
và tình yêu vợ chồng đích thực
được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa.
Pet. Võ Tá Đương, OP
Ngày nay với sự phát
triển vượt bậc về khoa học kỹ thuật và công
nghệ trên thế giới, con người được tận hưởng cuộc sống đầy đủ tiện nghi vật
chất tối tân. Thế nhưng, bên cạnh một thế giới tưởng chừng như đầy đủ ấy thì
con người ngày nay lại cảm thấy thiếu vắng một điều cần thiết nhất, đó là tình
yêu và sự quan tâm đến nhau. Quả thế, “tình
yêu trong thế giới ngày nay đang bị đe dọa bằng nhiều cách và tình yêu gia đình
đang bị lu mờ dần dần.”[1]
Trước
thực trạng xã hôi như thế, người Kitô hữu chúng ta được mời gọi tái khám phá và
phục hồi những giá trị cao đẹp của ơn gọi Hôn nhân gia đình, để mọi người ý
thức và sống đời Hôn nhân như một giao ước tình yêu, một ơn gọi và một sứ mệnh
cao quý, được chọn lựa với ý thức, tự do và trách nhiệm.[2]
Để qua đó, ánh sáng Tin Mừng được chiếu toả và soi sáng vào thế giới đầy dẫy
bóng tối hôm nay.
Hôn nhân Công giáo, một
ơn gọi
Theo
quan niệm xưa, dân gian Việt Nam cho rằng Hôn nhân chỉ là duyên số hay duyên
phận. Duyên số đó đã được Ông Tơ, Bà Nguyệt ấn định, không ai có thể cưỡng lại
được. Ông Tơ, Bà Nguyệt ngồi trên cung trăng định đoạt chuyện nhân duyên của
người trần thế. Ông Bà lấy một sợi tơ đỏ buộc chân một người nam và một người
nữ vào nhau. Thế là nhất định họ sẽ phải thành vợ chồng. Do đó theo quan niệm
cũ, chuyện vợ chồng, là do sự sắp đặt
của Ông Tơ, Bà Nguyệt.[3]
Có lẽ cũng do quan niệm đó mà dân gian ta có câu: “cha mẹ đặ đâu con ngồi đó.”
Ngày
nay người ta không thể chấp nhận được quan niệm bình dân ấy. Bởi lẽ, Hôn nhân
phải có tính cách tự do và ý thức, chứ không do một nguyên nhân mù quáng nào đó
sắp đặt. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa ban cho có lý trí và tự do để chọn
lựa và quyết định làm điều tốt hay không làm điều tốt, chấp nhận hay từ chối
một điều gì đó.[4]
Với
ánh mắt đức tin, chúng ta cũng không tin là Hôn nhân đã được ấn định do một
năng lực vô hình nào mà không ai có thể cưỡng lại được. Nhưng, chúng ta xác tín
rằng, Hôn nhân là một ơn gọi cao quý đến từ Thiên Chúa. Điều này chính Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI đã khẳng định: “Hôn nhân
không phải là kết quả của ngẫu nhiên hay của các năng lực tự nhiên, vô ý thức
tạo thành. Trái lại, đó là một tổ chức khôn ngoan của Tạo Hóa để thực hiện ý
định tình yêu của Ngài trong nhân loại.”[5]
Nhiều
người nghĩ rằng, chỉ có ơn gọi làm giám mục, linh mục, tu sĩ…, chớ làm gì có ơn
gọi làm vợ làm chồng! Nghĩ như thế là không đúng. Mỗi người chúng ta đều có ơn
gọi. Thiên Chúa đã gọi ta từ khi ta còn trong lòng mẹ, lúc ta chưa chào đời.[6]
Như thế, ơn gọi đầu tiên của con người là được hiện hữu trong cõi nhân gian
này. Tiếp đến là ơn gọi làm con Chúa trong lòng Giáo Hội qua bí tích Thánh Tẩy.
Và ơn gọi tiếp đến là ơn gọi cụ thể trong đời sống của mỗi chúng ta.
Thiên
Chúa đã có đầy đủ kế hoạch riêng biệt cho mỗi người một cách khác nhau,[7]
và mời gọi chúng ta đáp lại tiếng gọi yêu thương của Người. Có người được chọn
gọi làm linh mục; người được mời gọi đời sống tu trì, cũng có người được gọi
sống bậc độc thân giữa đời, và rất nhiều người được mời gọi sống đời Hôn nhân
gia đình. Như thế, mỗi người xuất hiện trên trần gian đều có ơn gọi. Ơn gọi có
thể khác nhau, nhưng tất cả đều có một mục đích chung là nên thánh.[8]
Bởi
vậy, Hôn nhân Công giáo là một ơn gọi. Qua việc phối hợp trong tình yêu, hai vợ
chồng được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa,[9]
một Thiên Chúa yêu thương và luôn trung tín.[10]
Trong đời sống Hôn nhân, hai người nam - nữ tình nguyện gắn bó với nhau, giúp
nhau nên thánh; cùng nhau thánh hóa bản thân và gia đình, làm cho gia đình mình
thành một gia đình thánh.
Ơn
gọi này đã được Thiên Chúa hoạch định và chúc phúc ngay từ thuở ban đầu.[11]
Khi đến trong trần gian, đặc biệt khi tham dự tiệc cưới Cana[12],
Chúa Giêsu đã thánh hoá tình yêu đôi bạn và nâng Hôn nhân thành bí tích, ngang
hành với các bí tích trong Giáo Hội. Để chu toàn ơn gọi này, Chúa Giêsu đã hứa
ban những ơn cần thiết cho vợ chồng qua tình yêu mà họ trao cho nhau, qua kinh
nguyện và các bí tích.
Hôn nhân Công giáo, một
bí tích
Vì
là một trong những bậc sống mà Thiên Chúa mời gọi con người, nên Hôn nhân Công
giáo là một việc cao quí và thánh thiện, hợp với ý định của Thiên Chúa. Hôn
nhân Công giáo càng trở nên cao trọng vì được nâng lên hàng bí tích như Giáo
Hội dạy:
Hôn ước mà nhờ
đó người nam và người nữ tạo nên một cộng đồng sự sống và tình yêu đã được Đấng
Sáng Tạo thiết lập và phú cho những luật riêng. Tự bản chất, Hôn nhân hướng đến
thiện ích của đôi vợ chồng, việc sinh sản và giáo dục con cái. Hôn nhân giữa
những người đã chịu phép thánh tẩy được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích.[13]
Quả
thế, Hôn nhân Công giáo là một bí tích cao trọng được Thiên
Chúa thiết lập để thánh hoá đời sống gia đình.[14] Thánh Gioan Kim Khẩu nói:
“Hôn nhân là bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong Hôn nhân, cả hai
không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời.”[15] Khi cử hành bí tích Hôn
Phối, đôi bạn trao đổi với nhau lời thề hứa sẽ yêu thương, tôn trọng và trung
chuỷ với nhau suốt đời. “Tôi nhận (anh/em) làm (chồng/vợ) và hứa giữ lòng chung thuỷ với (anh/em), khi thịnh
vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu
thương và tôn trọng (anh/em) suốt đời tôi”.[16] Lời ưng thuận cam kết đó
đã mở ra cánh cửa cho cuộc sống Hôn nhân và gia đình.
Trong đời sống Hôn nhân gia đình, tình yêu giữa hai vợ chồng có ý
nghĩa rất phong phú và sâu sắc, vì bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và rập theo
khuôn mẫu tình yêu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình yêu đó có hai đặc tính là
đơn nhất và bất khả phân ly. “Sự gì Thiên Chúa đã
đã phối hợp, loài người không được phân phân ly.”[17]
Bí tích Hôn Phối biểu lộ sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh.
Bí tích này ban ơn giúp các đôi vợ chồng yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu
thương Giáo Hội. Giáo Hội dạy chúng ta rằng:
Mỗi
người phải thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô để chu toàn bổn phận Hôn nhân và gia
đình, nhờ đó tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến và càng
ngày càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của bí tích Hôn nhân và sự
thánh hóa lẫn nhau; và nhờ đó, cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa.”[18]
Khi một người nam và một nữ cử hành bí tích Hôn Phối, chúng ta có
thể nói là Thiên Chúa được “phản ánh” trong đó, Người đánh dấu họ bằng những
đặc điểm và căn tính không thể xóa được của tình yêu Thiên Chúa dành cho Giáo
Hội. Hôn nhân là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.[19] Vì thế, Hôn nhân Công
giáo là một bí tích thực sự. Bí tích này dẫn chúng ta vào trung tâm của kế
hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch của giao ước với dân Người, với tất cả chúng
ta. Đó chính là giao ước của sự hiệp thông, giao ước yêu thương.
Hôn nhân Công giáo, giao
ước yêu thương
Từ
ngàn xưa đến ngày nay và có lẽ còn mãi về sau, hầu như nền văn hoá nào cũng coi
Hôn nhân là việc linh thiêng. Chính vì thế, trước khi về chung sống với nhau,
cô dâu chú rể thường xin trời đất, thần linh hoặc ông bà tổ tiên chứng giám và
phù hộ cho cuộc Hôn nhân của mình qua một nghi lễ công khai và long trọng.[20]
Đối
với người Kitô hữu, Hôn nhân không chỉ là chuyện của hai người, nhưng trước hết
và trên hết là của chính Thiên Chúa, vì chính Người tác tạo Hôn nhân.[21]
Chúa Giêsu không những tái lập quy định từ ban đầu do Thiên Chúa muốn, mà Người đã nâng giao ước yêu thương giữa hai
người Công giáo lên hàng bí tích,[22]
Người còn ban ân sủng dồi dào thánh hoá tình yêu và đời sống đôi bạn,[23]
cũng như gia đình Kitô hữu, để con người sống ơn gọi Hôn nhân trong phẩm giá
mới của bí tích. Phẩm giá mới đó là dấu chỉ về tình yêu phu thê của Người đối
với Giáo Hội: “Người làm chồng, hãy yêu
thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh.”[24]
Vì thế, trong giao ước yêu thương này, sợi giây hôn phối
liên kết hai người nam – nữ mãi mãi không bị cắt đứt, và Giáo Hội không có
quyền đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Nhờ đó, ân sủng được ban trong bí tích
Hôn Phối nhằm kiện toàn tình yêu vợ chồng, và kiên cường sự hiệp nhất bất khả
phân ly. “Chúa Kitô ban dồi dào ân phúc cho tình yêu vợ chồng... Như xưa kia
Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành;
ngày nay Đấng Cứu Thế, bạn Trăm Năm của Giao Hội, cũng đến với đôi vợ chồng qua
Bí tích Hôn phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi trung thành
yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Người đã yêu thương Giáo Hội và
đã nộp mình vì Giáo Hội.”[25] Như vậy, Hôn nhân là một
giao ước, vừa tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa vừa làm cho Chúa hiện
diện trên trần gian. Giao ước này không chỉ là sự khế ước giữa hai người nam – nữ,
nhưng là giao ước Hôn nhân hội nhập giao ước giữa Thiên Chúa với con người, và
tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa.
Tạm kết
Sống
giao ước yêu thương, mỗi chúng ta được mời gọi trung thành với ơn gọi và bậc
sống mà chúng ta đã đón nhận và đáp trả từ tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu là nền
tảng của Hôn nhân và gia đình. Tình yêu ấy không phải là một tình yêu lãng mạn
đầy thơ mộng, nhưng một tình yêu đã được thử thách qua thời gian. Tình yêu ấy
bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về thứ tình
yêu này: đó là tình yêu hy sinh, dâng hiến và phục vụ.[26]
Khi
nỗ lực sống yêu thương và trung thành với nhau, đôi vợ chồng phản ánh tình yêu
của Thiên Chúa đối với con người, cũng như tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo
Hội. Đó là một tình yêu son sắt không đổi thay. Tình yêu đó tạo nên sự hiệp
thông thâm sâu giữa vợ chồng với nhau, cũng như giữa cha mẹ và con cái, phản
ánh mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội.
[1] Lời nhận đinh của Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Mexico tháng 5/1990.
[2] Xc. Hội đồng Giám mục Việt
Nam, Thư Chung mục vụ năm 2013, số
07.
[3] Xc. Hoàng Văn Hành (Chủ
biên). Kể chuyện thành ngữ tục ngữ
(Tái bản lần thứ III), Nxb. KHXH, 2002, tr. 386.
[4] Xc. St 1, 26- 30.
[5] ĐGH Phaolô VI, Thông Ðiệp Humanae Vitae, số 09.
[6] Xc. Is 49, 1- 6.
[7] Xc. Ep 4, 11 -13.
[8] Xc. Lv 11, 44 -45; Mt 5, 48.
[9] Xc.St 1, 26- 28.
[10] Xc. Hs 2, 21.
[11] Xc. St 2, 18 -24.
[12] Xc. Ga, 2, 1-11.
[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1660.
[14] Xc. Giáo Luật, điều 1055 §2.
[15] Xc. Uỷ ban Giáo Lý Đức Tin,
Hội đồng GMVN, Giáo lý Hôn nhân và gia
đình, NXB. Tôn giáo, 2004, tr. 19.
[16] Xc. Nghi lễ Hôn Phối.
[17] Mt 19, 6.
[18] Vat. II, Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số
48.
[19] Xc. Bài giáo lý của Đức
Thánh Cha Phanxicô về bí tích Hôn Phối.
[20] Xc. Uỷ ban Giáo Lý Đức Tin,
Hội đồng GMVN, Giáo lý Hôn nhân và gia
đình, NXB. Tôn giáo, 2004, tr. 19.
[21] Xc. Vat. II, Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số
48.
[22] Xc. Giáo Luật, điều 1055 § 1.
[23] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1661.
[24] Ep 5, 25.
[25] Vat. II, Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số
48.
[26] Xc.
Mt 20, 28.
Đăng nhận xét