Cảm nghiệm tình yêu và
cách đối xử đầy lòng xót thương
của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với con người và vạn vật,
thiết nghĩ rằng mỗi người chúng ta -
những con người đã được Thiên Chúa yêu thương…
được mời gọi ra khỏi cái tôi vô tín, tham lam,
ích kỷ, bạo lực của mình và bước tới tương quan
trong yêu thương với tha nhân và với thiên nhiên vạn vật
như Thiên Chúa đã thương xót chúng ta.
của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với con người và vạn vật,
thiết nghĩ rằng mỗi người chúng ta -
những con người đã được Thiên Chúa yêu thương…
được mời gọi ra khỏi cái tôi vô tín, tham lam,
ích kỷ, bạo lực của mình và bước tới tương quan
trong yêu thương với tha nhân và với thiên nhiên vạn vật
như Thiên Chúa đã thương xót chúng ta.
Lm. Giuse Đinh Đức
Huỳnh, SSS
Bạn thân mến,
Như các nhà khoa học và các nhà môi
trường học cho biết, ngôi nhà chung/trái đất của chúng ta đang bị suy thoái,
khủng hoảng đến mức báo động. Cùng sống
trong ngôi nhà chung này, thiết tưởng tôi và bạn, những người có niềm
tin – nếu còn chút lòng thương cảm
đối với đồng loại và thiên nhiên vạn vật đang khốn khổ, giãy chết - cùng nhau
dành ít phút suy tư, tự vấn lương tâm, và tìm ra những giải pháp thiết thực,
khả thi… để phục hồi ngôi nhà chung/trái đất/môi trường sống của con người và
muôn vật tốt hơn.
1. Bạn có thực sự muốn điều tốt đẹp cho “ngôi nhà chung” không?
Có bao giờ bạn lại bắn phá, thả bom phá
hủy ngôi nhà và mọi người mọi vật trong ngôi nhà bạn đang ở không? Có bao giờ bạn lại thả thuốc độc/ nước thải độc hại
xuống giếng nước nhà bạn đang dùng không?.... Chắc hẳn là bạn không bắn
phá nhà bạn (!), vì đó là ngôi nhà thân yêu bạn đang ở, nơi đó bạn được che chở
an toàn và được sống chung hạnh phúc với mọi thành viên trong gia đình bạn!
Chắc hẳn bạn cũng chẳng dại gì làm giếng nước nhà bạn bị nhiễm độc vì nó cung
cấp nước sạch và trong mát cho bạn và gia đình bạn hưởng dùng! Chỉ có những kẻ gian ác mới làm những chuyện dại dột
như thế ! Còn bạn, tôi thiết nghĩ bạn có đủ lý do để muốn điều tốt đẹp cho ngôi
nhà riêng của gia đình bạn, cũng như “ngôi
nhà chung”/trái đất mà Thiên Chúa đã yêu thương tạo dựng cho muôn loài,
vì đó là nơi bạn đang được hiện diện, vui sống, triển nở với toàn thể cộng đồng
sự sống!
Ấy vậy mà “ngôi nhà chung”/trái đất mà
Thiên Chúa yêu thương tạo dựng cho chúng ta và cho muôn vật đang bị suy thoái,
khủng hoảng, đang rơi vào tình trạng bị bức tử. Bạn có biết thực trạng và hậu quả của suy thoái, khủng hoảng môi
trường không? Và bạn có biết nguyên nhân sâu xa nào dẫn đến khủng hoảng “ngôi
nhà chung” không?
2. Trái đất đang bị bức tử
Về thực trạng và hậu quả của suy thoái, khủng hoảng môi trường
Theo
Mai Anh/Tri thức trẻ,[1]
con người đang phải đối
mặt với một vấn nạn do chính lối sống ích kỷ, tham lam, gian ác của mình tạo
ra: toàn bộ hành tinh của chúng ta đều đang hứng chịu sự đe dọa từ ô nhiễm môi trường. Các dạng ô nhiễm chính bao gồm ô
nhiễm đất, ô nhiễm đại dương, ô nhiễm nguồn nước ngọt và ô nhiễm không khí.
Ngoài ra, các vấn đề về ô nhiễm âm thanh (tiếng ồn) hoặc ô nhiễm ánh sáng cũng
đang dần được quan tâm.
Ô nhiễm đất
Bạn có ngạc nhiên không nếu biết, ngay
chính hành động tiêu dùng hàng ngày và xả rác đúng nơi quy định cũng hủy hoại
tự nhiên? Nếu chưa tin, hãy trực tiếp tới thăm những bãi rác khổng lồ tại khu
vực ngoại thành của nơi bạn đang sinh sống. Để giữ cho thành phố có cảnh quan
xanh mát, sạch đẹp, ngoại thành và các cùng lân cận là địa điểm lí tưởng để
“tập kết rác” trong khi chờ xử lý.
Trước đây, hai cách xử lý rác sinh hoạt
phổ biến nhất là đốt hoặc chôn. Tuy nhiên, do trong rác thải chứa tỉ lệ nhựa
quá lớn nên khi đốt sẽ sinh ra chất gây ung thư, nguy hiểm tới tính mạng con
người. Vì vậy, đào các hố chôn khổng lồ để chứa rác là sự lựa chọn phổ biển
nhất hiện nay.
Tuy nhiên, chôn rác được coi là nguyên
nhân chính gây nên xói mòn đất và ô nhiễm mạch nước ngầm. “Thủ phạm” lớn nhất
phải kể tới Mỹ, quốc gia chỉ chiếm 5% dân số thế giới nhưng thải ra khoảng 30%
tổng lượng rác thải toàn cầu.
Ô nhiễm đại dương
Ước tính mỗi năm, có khoảng 6 triệu tấn
rác được thải trực tiếp xuống các đại dương. Phần lớn trong số đó là plastic
(thành phần chính của túi nilon và các sản phẩm nhựa) - kẻ thù số một với sự
sống của sinh vật biển.
Các sản phẩm từ plastic thường mất
khoảng 500 năm để có thể phân hủy, đồng nghĩa với việc chúng sẽ tồn tại lâu hơn
gấp nhiều lần bất kì sinh vật nào trên Trái đất.
Một sự thật khủng khiếp về sức hủy hoại
của con người tới đại dương đã được hé lộ: gần một nửa các loài chim biển, 22%
thú biển, tất cả các giống rùa biển và một danh sách dài các loài cá sống chung
với rác thải nhựa xung quanh - thậm chí là tồn tại trong cơ thể chúng.
Các sinh vật biển đã nuốt các túi nilon
do con người thải ra vì nhầm tưởng rằng đó chính là loài sứa.
Tốc độ thải rác của con người kinh khủng
tới mức ngay chính giữa Thái Bình Dương đã hình thành một “lục địa rác” trôi
nổi với diện tích gấp hai lần nước Mỹ.
Ngoài rác thải, dầu cũng là mối nguy hại
đáng sợ tới sinh vật biển. Ngoài các tai nạn tràn dầu đáng tiếc, ngay cả khi không xảy ra sự cố nào, việc chuyên chở dầu
bằng đường biển cũng trực tiếp gây ô nhiễm đại dương.
Ước tính, cứ một triệu tấn dầu được chở
thành công thì có khoảng một tấn dầu bị rò rỉ. Dầu bao phủ quanh cơ thể của các
sinh vật biển, khiến chúng không thể thở được. Đối với nhiều loại chim có thói
quen rỉa lông, chúng sẽ trực tiếp ăn dầu vào cơ thể gây tử vong.
Ô
nhiễm không khí
Ước tính cứ 8 người tử vong thì có một
trường hợp có nguyên nhân liên quan tới ô nhiễm không khí. Người ta đã ước tính
được rằng, việc hít thở khí trời tại Bắc Kinh trong một ngày làm gia tăng tỉ lệ
ung thư phổi tương đương hút 21 điếu thuốc lá/ngày.
Và con số này còn
khủng khiếp hơn tại Mumbai (Ấn Độ) khi việc hít thở tương đương với hút 100
điếu thuốc/ngày.
Nhưng bạn có tin, bầu không khí ô nhiễm
của Trung Quốc cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới Mỹ - quốc gia cách xa tới
tận 11.600 km. Ước tính khoảng 1/3 ô nhiễm không khí tại San Francisco có
nguyên nhân từ Trung Quốc.
Ô
nhiễm nước
Trên thế giới, cứ mỗi 8 giây lại có một
trẻ em chết vì nước ô nhiễm. Đây là một con số kinh hoàng, cao hơn bất kì tỉ lệ bệnh dịch nào. Tại các quốc gia nghèo như Ấn
Độ, khoảng 80% rác thải đô thị được đổ trực tiếp xuống sông Hằng.
Cũng tại con sông được coi là linh
thiêng với đạo Hindus này, người ta còn trực tiếp chôn xác người thân đã qua
đời. Vì vậy ở Ấn Độ mỗi ngày có khoảng 1000 trẻ em tử vong vì bệnh liên quan
tới ô nhiễm nước.
Một quốc gia đang phát triển khác là
Trung Quốc cũng không phải ngoại lệ. Có khoảng 700 triệu người Trung Quốc,
tương ứng với 50% dân số quốc gia này, hiện đang phải sử dụng nguồn nước ô
nhiễm.
Các quốc gia phát triển cũng không tránh
khỏi sự ảnh hưởng từ ô nhiễm nước. Khoảng 1/3 lượng cá ở các dòng sông tại Anh
đang hứng chịu quá trình chuyển đổi giới tính mà nguyên nhân chính là do ô
nhiễm nước.
Về nguyên nhân sâu
xa dẫn đến tình trạng khủng hoảng môi trường/ngôi nhà chung
Có thể bạn đã được biết rồi! Có những
nhà khoa học cho rằng gốc rễ của mọi vấn đề môi trường là sự bùng nổ dân số.
Theo họ,
Dân
số quá đông không những đòi hỏi cần nhiều lương thực mà cũng tiêu thụ nguồn
năng lượng, tài nguyên, khí thải do con người thải ra hàng ngày làm ô nhiễm bầu
khí quyển, nước thải, rác công nghiệp cũng tăng không ngừng theo tốc độ tăng dân
số. Ngoài ra, các vấn đề giao thông chen chúc, nên thiếu nhà ở,… đều gắn với
dân số. Tất cả những vấn đề đó đều trở thành sức ép rất lớn đối với môi trường.[2]
Thế
nhưng, nhìn ở mức độ sâu xa hơn, từ góc độ đức tin Ki-tô giáo, chúng ta nhận ra
rằng những biểu hiện của khủng hoảng môi trường chỉ là “những triệu chứng” của một “căn bệnh nan y” đang xảy ra đối với môi
trường/trái đất này. Chính thái độ vô tín/ vô thần và khủng hoảng niềm tin nơi
con người – biểu lộ qua thái độ dửng dưng
với những nhu cầu thiêng liêng/nhu cầu đạo đức/luân lý của họ và của người
khác, tức là dửng dưng với những giá trị vượt trên vật chất, để rồi từng bước dẫn
họ tới lối sống ÍCH KỶ è
HƯỞNG THỤ è THAM LAM è
MƯU MẸO è GIAN ÁC è
HỦY DIỆT…. không một chút xót thương đồng
loại của mình và thiên nhiên vạn vật – là “nguyên nhân sâu xa” của khủng hoảng môi trường.[3]
Thật vậy, chính Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã khẳng định: “Khi con người quay lưng lại với những kế hoạch của
Đấng Tạo Hóa, con người gây ra một sự rối loạn, và sự rối loạn này dẫn đến
những hậu quả nơi nhân loại.”[4]
Hơn nữa, thái độ dửng dưng với những nhu cầu thiêng liêng như thế, theo thần
học gia Nancy G Wright và Donal Kill, đã
dẫn nhiều người đến tình trạng mất đi cảm thức mình là một thành phần của thế giới, của
cộng đoàn trái đất này, bởi vì con người, trước hết, đã đi lệch hướng khỏi nền
tảng nguyên thủy là Đấng Tạo Hóa; từ đó dẫn đến mất đi sự tôn trọng “cái
khác/người khác” (otherness).[5]
Các Giám Mục Ý cũng đã nhận ra tình trạng dửng dưng, lãnh đạm này và đã nhấn
mạnh:
Khủng hoảng không chỉ tỏ lộ trên việc sử dụng những nguồn tài nguyên của
trái đất nhưng còn là một cuộc khủng hoảng những giá trị thiêng liêng. Văn hóa
của chúng ta đã quá thiên về vật chất và đã dửng dưng, bỏ quên chiều kích
thiêng liêng của đời sống.[6]
Không cần phải nói, cuộc khủng hoảng niềm tin/khủng
hoảng những giá trị thiêng liêng này vốn tỏ lộ qua thái độ tham lam muôn mặt
trong việc phát triển kinh tế duy lợi nhuận. Điều này được bộc lộ rõ nét nhất,
đặc biệt ở những quốc gia kỹ nghệ hóa. Theo Donal Kill nhận định, vì sự đầy
tràn và dư thừa đi theo việc phát triển, văn hóa của họ đã trở nên duy vật chất
và chủ nghĩa khoái lạc,[7]
và, do đó, sự nghèo khó tinh thần không còn được đánh giá cao.[8]
Họ dành cho những vật thụ tạo một vị trí quan trọng tuyệt đối và tương đối hóa
Thiên Chúa, đến độ, theo như Julia Esquivel Velasquez nhận định, “họ hy sinh
sự phong phú và vẻ đẹp của trái đất để tạo ra của cải và hàng hóa trong những
nhà máy của họ, nhằm để thỏa mãn sự thèm khát chiếm hữu và thống trị của họ.
Thái độ này cho thấy sự trống rỗng thiêng liêng,
lòng kiêu ngạo và hão huyền/phù phiếm của họ”.[9]
Cuối cùng, nguồn tài nguyên của trái đất bị cạn kiệt dần và bị đối xử
tồi tệ như những phương tiện để con người khoe khoang tự đắc, chứng tỏ quyền
lực của mình. Và kết quả là gì? Đó là khủng hoảng môi trường xảy ra dưới mọi
hình thức: trái đất bị cưỡng bức, bị ô nhiễm, bị khai thác triệt để…. và có
nguy cơ bị hủy diệt.[10]
Bạn đã
nhận ra rằng con người đã và đang đối xử bạo lực, bất công với nhau và với
thiên nhiên vạn vật không một chút lòng trắc ẩn và xót thương như thế ! Vậy bạn
có biết Ba Ngôi Thiên Chúa đối xử với con người và thiên nhiên vạn vật thế nào
không?
3.
Thiên Chúa xót thương
trái đất này
Kinh
Thánh cho chúng ta biết cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu thương và đối xử thật tốt
đẹp với con người và muôn loài muôn vật. Thật vậy, Tình yêu và cách đối xử đầy
lòng xót thương của Ba Ngôi Thiên Chúa được biểu lộ bằng nhiều cách thế:
Trước hết, trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, chính “Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật” (Kinh
Tin Kính) và mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp (x. Stk 1, 1-31). Nhờ Đức Giê-su
Ki-tô, Ngôi Lời của Thiên Chúa, “mà muôn
vật được tạo thành” (Kinh Tin Kính). Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống,
mà muôn vật nhận được hơi thở và sự sống (x. Stk 1,2).
Kế
đến, trong sự yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, mọi loài đã được Thiên Chúa
bảo tồn, chăm sóc, dưỡng nuôi…! Thật vậy, chính Chúa Giê-su đã khẳng định:
Chim trời, chúng không
gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi
chúng…; và hoa huệ ngoài đồng… chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà… ngay
cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy (Mt 6, 26-30).
Và
Ngài còn khẳng định: “Hai con chim sẻ chỉ
bán được một xu phải không ? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý
của Cha anh em” (Mt 10,29). Hơn thế nữa, đối với loài người, Thiên Chúa đặc
biệt săn sóc họ, như chính Chúa Giê-su đã cho thấy: “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn
mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em…” (Mt 6, 30). Nói cách khác,
trong sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa,“Ngài gìn giữ vạn vật trong sự hiện hữu, nâng đỡ và ban cho nó khả năng
hoạt động và hướng dẫn nó đến sự trọn hảo nhờ Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
(Giáo Lý Youcat, số 55).
Kế đến, trong mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa,
như thánh Phao-lô khẳng định, “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Đó là tình yêu cao cả của Chúa
Cha dành cho trần thế. Về phần Đức Giê-su Ki-tô, trong mầu nhiệm Nhập Thể, như
Brennan R. Hill đã xác tín, “Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa đi vào trong
vật chất và Ngài chính là bí tích nền tảng.”[11]
“Ngài trở nên một con người của trái đất,”[12]
một thành phần của trái đất, và nhận biết sự tốt đẹp của vũ trụ, trái đất mà
Thiên Chúa đã yêu thương tạo dựng.[13]
“Ngài chúc lành cho công việc hoạt động của con người. Ngài mạc khải cho con
người biết về Thiên Chúa là Cha và là Đấng Tạo Thành, là Đấng dưỡng nuôi và
chữa lành, Đấng mang ánh sáng cho kẻ mù lòa, Đấng ban lương thực cho đám đông
dân chúng đói ăn, và mang niềm hy vọng cho những kẻ đang ngồi trong bóng tối
của tội lỗi, chúc lành cho những kẻ nghèo hèn và bị áp bức.”[14]
Như vậy, “chính ngang qua nhân tính của Người mà con người nhận biết Thiên Chúa
đang hoạt động và kinh nghiệm được quyền năng chữa lành, tha thứ, và cứu độ của
Đấng Tạo Hóa.”[15]
Hơn
nữa, trong các Bí Tích mà Chúa Giê-su thiết lập, Ngài đã sử dụng, chúc lành,
biến đổi, thánh hóa những yếu tố vật chất (nước, dầu xức, bánh miến, rượu nho…)
để trở nên những dấu chỉ/bí tích, qua đó
trao ban ân sủng của Thiên Chúa cho con người.[16]
Các bí tích, như Edward Schllebeeckx đã khẳng định, là việc gặp gỡ Đức
Ki-tô.
Nhưng các bí tích không
chỉ là việc gặp gỡ. Đúng hơn, chúng là những cơ hội được trao ban cho chúng ta
để tiếp cận gần gũi và thân tình cá nhân với Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ. Đó
là những thời gian ‘ân sủng tuyệt vời’ khi các tín hữu có thể tiến sâu hơn vào
sự sống, sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô. Các bí tích là những cuộc cử hành
sự sống mà chúng ta được chia sẻ với Thiên Chúa và với tất cả sinh vật…[17]
Ngang
qua bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được thanh tẩy tội lỗi, trở nên con Thiên
Chúa, được dẫn tới Đức Ki-tô và cộng đoàn Hội Thánh mà Ngài thiết lập… và với
sự gắn kết với Đức Ki-tô qua phép thánh tẩy, họ còn đạt được một sự hiệp nhất
sâu xa giữa muôn vật.[18]
Với
bí tich Thánh Thể, như Brennan R. Hill diễn tả:
Thánh Thể là một Bữa Tiệc nơi đó những Ki-tô
hữu chia sẻ tặng phẩm của Thiên Chúa và tưởng nhớ đến những con người đang đói
khát và bị tước đoạt trên thế giới, những con người đang giơ tay ra để nhận lấy
những của cải được chia sẻ hợp pháp.[19]
Hơn
nữa, Brennan R. Hill còn xác tín rằng: “Thánh Thể cử hành Giao Ước mới mà Thiên
Chúa đã ký kết với trái đất và muôn vật sống động. Một Giao ước mới bây giờ
được Đức Ki-tô là Trưởng Tử ký kết với một ‘tạo thành mớí’”[20];
và nhất là “Thánh Thể là dấu hiệu cho sự biến đổi những yếu tố được tạo dựng
trở thành Đức Ki-tô Phục Sinh.”[21]
Với
bí tích hòa giải, quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ lộ cho
con người tội lỗi biết sám hối, những con người đã từng quay lưng lại với Thiên
Chúa và đối xử bất công với nhau và với thiên nhiên vạn vật, những thụ tạo của
Thiên Chúa. Sự hòa giải, như diễn tả của thánh Phao-lô, như là một hành động
của Thiên Chúa: “Mọi sự đến từ Thiên Chúa Đấng hòa giải chúng ta với Ngài qua
Đức Ki-tô” (2 Cor 5, 18). Nhờ đó, chúng ta, những hối nhân, được thứ tha tội
lỗi, được giao hòa với Thiên Chúa (tức là
“lại được bước đi với Đấng Tạo dựng nên mình” – walk again with their Creator),
với nhau, và với toàn thể vạn vật.[22]
Ngang qua mầu nhiệm khổ nạn, chết và phục Sinh của Đức
Giê-su, chúng ta nhận ra rằng thế giới sa ngã đã được cứu chuộc nhờ thập giá
của Đức Ki-tô, và chính “cái chết của Ngài trên Thập giá mang lại ý nghĩa mới
cho vũ trụ”, đồng thời “sự Phục Sinh của Đức Ki-tô là một lời khẳng định rằng
toàn thể tạo thành được hoạch định để tiếp tục hướng tới sự mới mẻ. Thế giới
của chúng ta không phải là một thế giới được tiền định bị phá hủy, nhưng là một
thế giới có một tương lai viên mãn”.[23]
Kết luận
Theo
bạn, đâu giải pháp hữu hiệu để chữa trị căn bệnh suy thoái, khủng hoảng “ngôi
nhà chung”?
Nhận
biết thực trạng suy thoái, khủng hoảng “ngôi nhà chung” và nhận biết thái độ vô
tín, vô cảm, vô tâm là nguyên nhân sâu xa gây ra khủng hoảng, đồng thời cảm
nghiệm tình yêu và cách đối xử đầy lòng xót thương của Ba Ngôi Thiên Chúa đối
với con người và vạn vật như thế, thiết nghĩ rằng mỗi người chúng ta - những
con người đã được Thiên Chúa yêu thương
“dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa”, tức là được dựng nên để có khả năng
sống yêu thương như Thiên Chúa là Tình yêu, cũng là những con người tội lỗi đã
được Chúa xót thương tha thứ tội lỗi và phục hồi sự sống… - chúng ta được mời gọi ra khỏi cái tôi vô tín, tham lam,
ích kỷ, bạo lực của mình và bước tới tương quan trong yêu thương với tha nhân
và với thiên nhiên vạn vật như Thiên Chúa đã thương xót chúng ta. Điều đó đòi hỏi
chúng ta phải “hoán cải cõi lòng” mình theo lời mời gọi của Đức Ki-tô, nhất là
trong năm kính lòng Chúa Thương xót, và có những hành động yêu thương cụ thể
đối với tha nhân và thiên nhiên vạn vật, như là biểu lộ của lòng thương xót đối
với những thụ tạo của Thiên Chúa. Đó là một phương thuốc hữu hiệu để chữa trị căn bệnh khủng hoảng của “ngôi nhà
chung”/trái đất mà Thiên Chúa đã yêu
thương tạo dựng cho con người và muôn vật.
[1] Nguồn: ViralNova, List25. X. Các Loại Ô Nhiễm Do Con Người Gây
Ra Khiến Trái Đất Ngày Càng Kiệt Quệ, trong http://kenh14.vn/kham-pha/cac-loai-o-nhiem-do-con-nguoi-gay-ra-khien-trai-dat-ngay-cang-kiet-que-015042611262860.chn
Đăng ngày 30/4/2015.
[2] Khủng
Hoảng Lớn Hiện Nay Đều Liên Quan Đến Môi Trường, trong
http://elib.dostquangtri.gov.vn/ntmn/Include/Index.asp?option=6&ID=105&IDhoi=2428
[3] Xc. Brennan
R. Hill, Christian Faith and the
Environment: Making Vital Connections (Đức Tin Ki-tô Giáo và Môi Trường:
Tạo Nên Những Nối Kết Sinh Động) (New York: Orbis Books, 1998), 166; và Xc.
Joseph Đinh Đức Huỳnh, Cosmic Dimension
of the Eucharist in the Light of the Post Vatican II Eucharistic Theology,
(Manila: UST, 2010), 46.
[4] Xc. John
Paul II, 1990 World Day of Peace Message, “Peace
with God the Creator, Peace with all of Creation.” (Sứ Điệp Ngày Hòa Bình
Thế Giới 1990, “Hòa Bình Với Thiên Chúa Đấng Sáng Tạo, Hòa Bình Với Vạn Vật”),
trong http://conservation.catholic.org/ecologicalcrisis.htm.
[5] Xc. Nancy G Wright và Donal Kill, Ecological Healing: A Christian Vision (Chữa Lành Môi Trường: Một Viễn Ảnh Ki-tô
Giáo), (New York: Orbis Books, 1993), tr. 55 và 57.
[6] Sđd. 166.
[7] Xc. Hill, Christian Faith, tr. 166.
[8] Xc. Wright
and Kill, Ecological Healing, 55.
[9] Julia
Esquivel Velasquez, “Spirituality of the Earth,” in The Power of Naming: A Concilium Reader in Feminist Liberation Theology,
(“Linh Đạo Về Trái Đất,” trong tập sách “The Power Naming:….Theology) ed.
Elisabeth Schussler Fiorenza, (Manila: St Paul, 2004),p. 330.
[10] Xc. Joseph
Đinh Đức Huỳnh, Cosmic Dimension of the
Eucharist, 47.
[11] Brennan R.
Hill, Christian Faith and the
Environment, 130.
[12] Ibid., 71.
[13] Xc. Ibid.
[14] Ibid.,, 87.
[15] Brennan R.
Hill, Christian Faith and the Environment,
130.
[16] Xc. Ibid., 87.
[17] Ibid., 21.
[18] X. Ibid.,
133-135.
[19] Brennan R.
Hill, Christian Faith and the
Environment,143.
[20] Ibid..
[21] Brennan R.
Hill, Christian Faith and the Environment,
143
[22] X. Ibid.,
149.
[23] Ibid., 118.
Đăng nhận xét