Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn
che lấp đi phần nào sự cao đẹp
của những giá trị hôn nhân và gia đình,
nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin
vào quyền năng Thiên Chúa, để trở thành sứ giả
loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay.[1]
che lấp đi phần nào sự cao đẹp
của những giá trị hôn nhân và gia đình,
nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin
vào quyền năng Thiên Chúa, để trở thành sứ giả
loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay.[1]
Ts. Phêrô Trần Đại Lượng - Dòng Kitô Vua
Thời gian gần đây, Giáo hội quan tâm cách
đặc biệt đến đời sống hôn nhân và gia đình. Trong hai năm 2014 – 2015, hai
Thượng Hội đồng Giám mục liên tiếp được triệu tập để bàn về các vấn đề hôn nhân
gia gia đình. Kết quả của Thượng Hội đồng Giám mục là Tông huấn Amoris Laetitia của Đức Giáo hoàng
Phanxicô ban hành ngày 8 tháng 4 năm 2016. Còn ở Việt Nam, Đại Hội thứ XIII của
Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dành ba năm từ 2016 đến 2019 cho vấn đề Mục vụ
Gia đình. Điều này cho thấy sự quan tâm về đời sống hôn nhân gia đình trong
giai đoạn hiện nay.
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy hôn nhân và gia đình đang đối
diện với nhiều thử thách, với sự mong manh và dễ đổ vỡ, trong đó có nhiều vấn
đề rất khó giải quyết cách trọn vẹn, chẳng hạn như ly dị, hôn
nhân đồng tính, người ly dị tái hôn… Qua bài viết này, trước hết người viết muốn nhìn lại nền tảng hôn
nhân gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa; thứ đến, thử nhận diện những thách
đố trong đời sống hôn nhân gia đình hiện nay; và cuối cùng là một vài đề xuất
theo hướng mục vụ.
I. NỀN TẢNG HÔN NHÂN
TRONG Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA
Sau
khi tạo dựng vũ trụ, cùng muôn vật muôn loài, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
theo hình ảnh của Ngài, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.[2]
Đó là ý định nguyên thủy của Thiên Chúa về đời sống hôn nhân.
1. Theo Thánh kinh
1.1. Cựu ước
Khi
tạo dựng con người theo hình ảnh Mình, Thiên Chúa khắc ghi ơn gọi tình yêu vào
trong tâm khảm của họ, để họ sống yêu thương và hiệp thông với nhau. Thiên Chúa ban cho Adam một người phối ngẫu tương
xứng. “Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương
xứng với nó.”[3] Thiên Chúa đã tạo dựng và ban cho Ađam “mọi dã thú, mọi
chim trời… nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.”[4] Chỉ khi Thiên Chúa tạo dựng người phụ nữ và dẫn tới cho
Ađam thì khoảng trống vắng nội tâm nơi ông mới được lấp đầy. Món quà Thiên Chúa
trao ban cho Ađam không nằm ngoài con người của ông nhưng là xương là thịt của ông. Ađam gọi nàng là “đàn bà” không
phải như một người chủ gọi tên các sinh vật, mà là tiếng gọi của hai con người
cùng phẩm giá với nhau. Họ gắn bó với nhau trong tình yêu và hiệp thông bao gồm
cả thân xác và tâm hồn, “cả hai trở thành một xương một thịt”. Đây chính là
đỉnh cao của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì tình yêu liên vị hiệp nhất,
con người mới trở nên thực sự hoàn hảo, giống hình ảnh của Thiên Chúa.
1.2. Các sách Tin Mừng
Chúa Giêsu đề cao giá trị của hôn nhân. Hôn nhân là quí
giá mà Thiên Chúa đã ban cho đôi vợ chồng và họ không được phép phá hủy mối dây
hôn nhân này. Con người phải bảo vệ tối đa giá trị của hôn nhân. Về vấn đề Môsê
đã cho phép ly dị, được Chúa Giêsu trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông
Môsê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”,[5] nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu
không có như vậy. Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ quan điểm của Ngài
là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp
với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng
không ai có quyền phá vỡ mối dây liên kết này.
Trong
đoạn Tin Mừng Máccô 10,11-12, Chúa Giêsu ngăn cấm vợ chồng bỏ nhau và cả vấn đề
tái hôn, Người coi việc tái hôn là ngoại tình. Vì qua hôn nhân, hai vợ chồng
thuộc về nhau vĩnh viễn, thế nên khi ly dị và tái hôn họ đều phạm tội ngoại
tình, vì đã phá hủy hôn phối trước; hôn phối này luôn có giá trị vĩnh viễn
trước mặt Thiên Chúa.
Chúa Giêsu coi người nam và người nữ ngang hàng với nhau
trước mặt Thiên Chúa trong vấn đề hôn nhân. Mỗi người đều phải trung thành với
nhau trong hôn nhân. “Ai rẫy vợ mà cưới vọ khác là phạm tội ngoại tình đối với
vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội
ngoại tình.”[6]
Cũng trong đoạn Tin Mừng Máccô 10,11-12, Chúa Giêsu
tái xác nhận lý tưởng về hôn nhân được sắp đặt từ thuở ban đầu. Người dẫn dắt
những người đặt câu hỏi cũng như những người nghe về lúc sáng tạo, “Lúc khởi
đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế,
người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương
một thịt.”[7] Rồi chính
Chúa Giêsu thêm vào lệnh truyền của Người:
“Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”[8] Như thế,
Chúa Giêsu dạy hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập, chính Thiên Chúa nối kết
hôn nhân, hôn nhân là bất khả phân ly, phá vỡ hôn nhân là xúc phạm đến Thiên
Chúa.
1.3. Thánh Phaolô
Thánh Phaolô cho rằng hôn nhân là kết hợp với
nhau suốt đời và sự kết hợp này là bất khả phân ly: “Luật chỉ có hiệu lực đối
với người ta, bao lâu người ta còn sống. Ví dụ như người đàn bà có chồng, thì
luật buộc theo chồng bao lâu chồng còn sống. Nhưng nếu chồng chết, thì người vợ
không còn bị luật ràng buộc với chồng nữa.”[9]
Thánh Phaolô lập lại và xác nhận luật của Chúa khi ngài đề cập đến các vấn đề
trong cộng đoàn Côrintô: “Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này,
không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì
phải ở độc thân hoặc phải
làm hòa với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.”[10]
Còn về mối tương quan giữa vợ chồng trong đời sống hôn
nhân, theo thánh Phaolô, chồng là đầu của vợ trong tương quan hôn nhân.[11] Ngài nhấn mạnh về quyền bình đẳng và trách nhiệm hỗ
tương giữa hai vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối
với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng
vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ.”[12] Quan niệm hỗ tương này cũng được nói lên rõ ràng trong
thư gởi tín hữu Êphêsô: vợ chồng nên phục tùng lẫn nhau vì tôn trọng và bổn
phận đối với Chúa Kitô: vợ đối với chồng, chồng đối với vợ trong yêu thương.[13]
Mặt
khác, chồng là “đầu của vợ” (Cl 3,18) không có nghĩa là chồng có quyền cai trị
vợ, nhưng là chồng được lệnh yêu thương vợ mình với tình yêu hy sinh như Chúa
Giêsu đã yêu thương Hội thánh. Theo thánh Phaolô, làm đầu bao giờ cũng phải
được thể hiện qua sự hy sinh bản thân chứ không qua sự đòi hỏi quyền lợi cho
chính mình.
Sự kết hợp giữa vợ và chồng như sự kết hợp
của Chúa Kitô và Hội thánh. Cựu Ước đã mạnh dạn diễn tả sự kết hợp giao ước
giữa Thiên Chúa và Israel bằng ngôn từ hôn nhân,[14] báo trước
sự linh thiêng và giá trị của hôn nhân. Theo truyền thống này, thánh Phaolô đã
diễn tả mối tương quan hôn nhân giữa vợ chồng qua mối tương quan tương tự giữa
Chúa Kitô và Hội thánh: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô đã yêu
thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh.”[15] Ngài còn
nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả
hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và
Hội Thánh.”[16]
Về vấn đề ly dị, trong cộng đoàn Côrintô có
một số phụ nữ đã bỏ chồng, thánh Phaolô phản đối bằng cách dùng lệnh của Chúa
Giêsu: “vợ không được bỏ chồng”,[17]
nhưng nếu đã bỏ chồng thì phải ở độc thân. Lệnh này áp dụng cho cả chồng lẫn
vợ. Tuy nhiên, khi ly dị đã thực sự xảy ra, thánh Phaolô cũng nhượng bộ như Chúa
Giêsu và theo một tiêu chuẩn rõ ràng: nếu ly dị có xảy ra, thì không thể tái
hôn để tránh tội ngoại tình. Người ly dị phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với
chồng hoặc ngược lại.[18]
Trường
hợp ngoại lệ, đó là chồng hay vợ có đạo có vợ hay chồng ngoại đạo thì nên cư xử
làm sao? Câu trả lời của thánh Phaolô rất phù hợp với điều ngài đã nói trước
đây: tín hữu không được thay đổi trong quan hệ hôn nhân của họ; tín hữu bị ràng
buộc với người phối ngẫu cho đến khi mối ràng buộc này được tháo gở hay hủy bỏ
bởi sự chết bao lâu người ngoại đạo đồng ý sống với người chồng hoặc vợ có đạo.[19] Nhưng nếu
người chồng hay vợ ngoại đạo muốn bỏ hay ly dị tín hữu, tín hữu cứ để họ đi:
trong trường hợp này, chồng hay vợ có đạo không bị ràng buộc bởi luật hôn nhân.[20] Họ có
quyền tái hôn. Đây phải nói là một trường hợp ngoại lệ cụ thể nơi cộng đoàn
Côrintô, nhưng thánh Phaolô luôn giữ vững quan điểm của ngài là tín hữu không
bao giờ tự mình đề xướng hay quyết định ly dị.
2. Theo Giáo hội
2.1. Các giáo phụ
Ở
những thế kỷ đầu, người Kitô giáo sống trong văn hóa Hy - La. Nơi nền văn hóa
này tồn tại hai khuynh hướng, hai quan niệm khác nhau về tính dục và hôn nhân
gia đình. Khuynh hướng ngoại giáo đề cao lối sống tìm khoái lạc, phi luật, sống
tự do luyến ái. Họ sống thác loạn tính dục, không quan tâm đến giá trị của đời
sống hôn nhân hay khiết tịnh. Ngược lại
khuynh hướng trên là khuynh hướng lạc giáo, đề cao tinh thần chống tìm kiếm
khoái lạc nơi thân xác, coi thường giá trị của đời sống hôn nhân. Trong bối
cảnh trên, các giáo phụ đưa giáo lý nói về hôn nhân và bảo vệ hôn nhân.
Thánh
Amrôsiô cho dù đề cao bậc đồng trinh và góa bụa, nhưng không hạ giá hôn nhân.
Ngài cho rằng hôn không phải là cái gì xấu; nếu như thánh Amrôsiô khuyên các
tín hữu đừng bước vào, thì đó không phải là lỗi lầm, nhưng là một gánh nặng,
một dây ràng buộc ngăn chúng ta hướng tâm hồn lên tới Chúa.[21]
Thánh
Gioan Kim Khẩu cho rằng hôn nhân không phải là chướng ngại vật ngăn cản ơn cứu
độ. Thiên Chúa thiết lập hôn nhân để duy trì nhân loại. Nhưng vì con người sống
trong tình trạng tội lỗi, nên hôn nhân có mục đích chính là cứu chữa vật dục.
Ai có ý chí mạnh có thể giữ mình khiết tịnh, còn ai không thể giữa mình thì lập
gia đình.[22]
Thánh
Augustinô đã trình bày giáo lý về hôn nhân như sau: hôn nhân không thể khinh
miệt vì chính Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc từ khởi nguyên vũ trụ; tiếp đến
được Đức Kitô nâng lên vị trí cao sang để làm mẫu biểu trưng cho sự kết hợp
giữa Người và Hội thánh. Thánh Augustinô cũng đề cao bậc đồng trinh, nhưng
không xem thường hôn nhân. Hôn nhân tốt lành vì có ba điều tốt: sinh sản con
cái, trung thành với nhau và dấn thân bất khả phân ly của vợ chồng.[23]
2.2. Công đồng Trentô
Giáo
lý của công đồng Trentô được đưa ra nhằm chống lại các quan điểm của phong trào
Cải Cách. Điểm chính yếu về giáo lý hôn nhân mà công đồng Trentô đã tuyên bố:
Hôn nhân Kitô
giáo là một bí tích. Hôn nhân là một định chế đã được Thiên Chúa thiết lập và
về sau được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích. Giáo hội có quyền trên hôn nhân:
Giáo hội có quyền xác định các ngăn trở tiêu hôn; miễn chuẩn với hôn nhân nhưng
chưa hoàn hợp; ban sắc lệnh được ly thân khi có lý do chính đáng, nhưng không
tháo gỡ dây hôn phối.[24]
Công
đồng không chỉ tuyên bố lại giáo lý về hôn nhân như một bí tích mà còn minh
định một cách rõ ràng rằng đây là một chân lý đức tin. Tính hợp nhất và bất khả
phân ly trong hôn nhân và tính chất thánh hóa của vợ chồng.[25]
2.3. Công đồng Vaticanô II
Công
đồng Vaticanô II đã dành trọn một chương trong hiến chế Gaudium et Spes để nói về hôn nhân gia đình. Với tựa đề: “Phải đề
cao phẩm giá của hôn nhân và gia đình”, và bao gồm những nội dung: tình trạng
hôn nhân và gia đình trong thế giới ngày nay, bản chất thánh thiện và đặc tính
hôn nhân, việc sinh sản con cái, tôn trọng sự sống, bổn phận của việc làm cha
mẹ, và cuối cùng là bổn phận của mọi người trong việc thăng tiến hôn nhân và
gia đình như là nền của xã hội.[26]
Hôn nhân gia đình trong Gaudium et Spes
qui hướng về ba vấn đề chính: hôn nhân là một ơn gọi nên thánh, tình yêu vợ
chồng trong định chế hôn nhân và mối tương quan giữa vợ chồng và sự sinh sản.
Hôn
nhân gia đình, một ơn gọi nên thánh. Trong số 48 của hiến chế Gaudium et Spes, đôi bạn được mời gọi
thánh hóa bản thân và lẫn nhau, và xuyên qua cuộc sống nên thánh của mình, đôi
bạn mở ra một con đường nên thánh cho con cái, và chính con cái cũng góp phần
vào việc nên thánh của các cha mẹ. Tất cả các khía cạnh của đời sống hôn nhân
và gia đình: tình yêu, phối hợp vợ chồng, sinh sản, giáo dục con cái là nguồn
mạch của việc nên thánh.
Tình
yêu vợ chồng trong đời sống hôn nhân gia đình. Tình yêu vợ chồng có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị
hướng đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự do. Tình yêu vợ chồng được
Thiên Chúa chữa trị, cải thiện và nâng cao. Tình yêu vợ chồng là một tình yêu
kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như thế phải thấm nhuần cả đời
sống và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm
tình và cử chỉ trìu mến. Nhờ đó tình yêu vợ chồng vượt xa xu hướng nhục
dục thuần túy.[27]
Tình yêu vợ chồng và sự sinh sản con cái. “Tự bản chất, chính
định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục
con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân.”[28] Con cái
vừa là ân huệ vừa là sự góp phần hạnh phúc của cha mẹ. Bổn phận truyền sinh và
giáo dục con cái là sứ mệnh riêng biệt và cao cả của vợ chồng, điều đó nói lên
sự cộng tác của vợ chồng với công trình sáng tạo của Thiên Chúa, họ trở thành
những người diễn đạt tình yêu của Ngài. Trong trường hợp vợ chồng không thể có
con, thì “hôn nhân vẫn tồn tại như một cuộc sống chung và vẫn giữ được giá trị
cùng đặc tính bất khả phân ly của mình.”[29]
Mục
đích của hôn nhân giờ đây không còn chỉ là sinh sản con cái, mà còn là tình yêu
của vợ chồng, yêu thương, gắn bó, giúp nhau hoàn thiện trong đời sống hôn nhân.
Hôn nhân không còn bị xem như một phương cách để cứu chữa vật dục, hành vi quan hệ vợ chồng giờ đây được
nhìn nhận như là một hành vi nhân linh cao cả, biểu lộ sự trao hiến hỗ tương
của tình yêu hợp nhất, trung thành và bất khả phân ly.
2.4. Văn kiện Giáo hội về hôn nhân và gia
đình
Thông Điệp Humanae
Vitae của Đức Phaolô VI, ban hành ngày 25.7.1968, đã nhấn mạnh đến sự liên
kết mật thiết giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái.
Trước hết, tình yêu vợ chồng là một tình yêu trọn vẹn tràn đầy nhân tính, có
nghĩa là vừa có cảm giác, vừa linh thiêng. Do đó, tình yêu vợ chồng không phải
chỉ có xúc động của bản năng và tình cảm, nhưng trước nhất là hoạt động của ý
chí tự do. Thứ đến, tình yêu vợ chồng là tình yêu toàn diện, có nghĩa là một
thứ thân tình đặc biệt làm cho đôi vợ chồng chia sẻ cho nhau tất cả một cách
quảng đại, không dè dặt vô ích và toan tính ích kỷ. Thứ nữa, tình yêu hôn nhân
cũng là một tình yêu chung thủy và độc hữu cho đến chết. Cuối cùng, tình yêu vợ
chồng là một tình yêu sinh sản: “Vì tự bản chất, hôn nhân và tình yêu vợ chồng
nhằm vào việc nhằm vào việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn
thành của hôn nhân.”[30]
Tông
huấn Famaliaris Consortio Đức Giáo
hoàng Gioan Phaolô II, ban hành ngày 22 tháng 11 năm 1981, nhấn mạnh sự kiện
gia đình cần được hướng dẫn bởi nguyên tắc nội tại của tình yêu: “Cũng như
không có tình yêu, gia đình không phải là một cộng đồng ngôi vị, thì cũng thế,
không tình yêu, gia đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện xét như một
cộng đồng ngôi vị.”[31]
Như thế, chính tình yêu là nền tảng và xây dựng sự hiệp thông vợ chồng như là
sự hiệp thông bất khả phân ly.
Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy chiếu đến việc tạo dựng con người bằng cách nhắc
lại rằng con người được tạo dựng bằng tình yêu. Con người được kêu gọi đến cuộc
sống bằng tình yêu và đồng thời con người được mời gọi sống tình yêu trong một
hành vi sáng tạo. Do đó, có ơn gọi, khả năng và trách nhiệm tương ứng, đối với
tình yêu và sự hiệp thông.[32]
Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa qua tình yêu trao ban và
đón nhận.
Trong
Tông huấn Amoris Laetitia, Đức
Phanxicô đề cập đến rất nhiều vấn đề liên quan đến hôn nhân và đời sống
gia đình, và chú trọng đặc biệt vào ơn gọi và sứ mệnh tình yêu của hôn nhân và
gia đình. Tông huấn nói về những sức mạnh và những ân huệ của gia đình, và
những thách thức hiện thời các gia đình trên khắp thế giới đang phải đối mặt.
Tông huấn khuyến khích các đôi vợ chồng, các gia đình, và các tác viên mục vụ
hãy đồng hành và chăm lo cho các gia đình và những ai đang cần được Chúa thương
xót và chữa lành. Điều này đòi hỏi ta phải biết suy nghĩ sâu xa về tình yêu và
những gì tình yêu bao hàm trong thực tại hằng ngày của hôn nhân và đời sống gia
đình.
II. CÁC VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1. Hôn nhân theo kiểu sống thử, sống chung
Sống
thử là hai người nam nữ tự do sống chung với nhau như vợ chồng một thời gian,
không có hôn thú và bí tích. Nếu hợp thì tiếp, không hợp thì chia tay. Nhưng
điều quan trọng là họ không nghĩ mình sống thử. Họ sống thật nhưng lại lỗi luật
luật Chúa và luật Giáo hội.
Mục tiêu
ban đầu của việc sống thử xem ra rất “hợp lý”: đó là việc tìm kiếm sự hòa hợp
giữa hai nhân vị để xây dựng hạnh phúc, với mơ ước có được một tình yêu thực sự
bền lâu. Nhưng trong cách thực hiện lối sống này, ta có thể thấy phát lộ ngay từ
đầu một sai lầm khá nghiêm trọng trong cách suy nghĩ: làm sao có thể xây dựng
một giá trị bền lâu nếu ngay từ đầu người ta đã nghĩ ngay là nó sẽ không tồn
tại lâu dài hoặc sẽ đổ vỡ nhanh chóng.
Việc
sống thử, sống chung không hôn nhân là đi ngược lại với các giá trị của truyền
thống thông thường của đời sống hôn nhân. Tự bản chất của điều đó là một sự
lệch lạc, nó sẽ để lại những hậu quả tai hại cho tương lai, đặc biệt là phía nữ
giới. Sống thử đi ngược lại với đời sống luân lý Công giáo. Thông điệp Familiaris Consortio khẳng định
sống thử là tình trạng tái qui tắc của hôn nhân Công giáo:
Tình trạng trái
qui tắc đầu tiên thường được gọi là “hôn nhân thử” mà ngày nay nhiều người đang
muốn biện minh bằng cách gán cho nó một vài giá trị nào đó. Thật là một điều
không thể nào chấp nhận được. Chỉ nguyên lý trí con người cũng đủ cho thấy điều
đó, khi cho thấy rằng chẳng có mấy lý do khiến ta có thể nói đến việc “thử
nghiệm” nhân vị, vì phẩm giá của nhân vị đòi hỏi phải luôn luôn được coi là
đích điểm của tình yêu trao hiến không trừ một giới hạn nào, dù là giới hạn
thời gian hay bất cứ giới hạn nào.[33]
Nhiều người nói rằng nguyên nhân của trào lưu
sống thử là việc hiện đại hóa xã hội và xu hướng tiêu thụ. Ngày nay, xã hội
tiêu thụ thời hiện đại cho phép người ta sử dụng và bỏ đi với các thứ đồ vật và
hàng tiêu dùng các loại. Xu hướng này đang lan vào ngay cả trong sự lựa chọn
tình yêu và gia đình. Nhiều người đang quên đi một điều quan trọng: dù cuộc
sống có hiện đại đến mấy, người ta cũng không cho phép chối bỏ con người và
những quyền lợi căn bản của họ. Con người, với phẩm giá của mình, luôn cần được
tôn trọng và bảo vệ. Như vậy, liệu có đạo lý hay không nếu bạn xem người mình
yêu như một “món hàng dùng thử”, nếu thích hợp thì chọn, không thích hợp thì bỏ
qua và tiếp tục chọn lực một món mới?[34]
Để sống chung với nhau suốt cuộc đời nhưng
trong tư tưởng lại không muốn sống hết mình và sống có trách nhiệm với người ấy
thông qua một lời cam kết nghiêm túc và chân thành. Sự thiếu chân thành đã bắt
đầu từ đây, và hôn nhân được xây trên nền tảng của sự giả dối nó có thể bền
vững được không?
Điều đáng nói là chuyện tình yêu của một
người không là chuyện cá nhân nhỏ bé vì nó chạm tới ít nhất là hai người và
liên quan tới cả một thế hệ nếu hai người “lỡ” có con cái với nhau. Gia đình
nhỏ bé mà mỗi người chúng ta xây dựng là viên đá cần thiết để kiến tạo tòa nhà
xã hội to lớn nên không sẽ là chuyện nhỏ và chuyện riêng tư cách hoàn toàn.
Dựa trên giáo lý và huấn quyền của Giáo hội, chúng ta
thấy tình trạng sống thử, sống chung nơi những người Công giáo là đi ngược lại
với những điều răn của Chúa và của Giáo hội:
Kiểu nói “Tự do
sống chung” là dối trá, vì có nghĩa gì một sự sống chung không hôn nhân, trong
đó những nhân vị không bị ràng buộc với nhau và như vậy chứng tỏ rằng họ không
tin tưởng vào người kia, vào chính mình hoặc vào tương lai?
Kiểu nói này chỉ
nhiều trường hợp khác nhau: ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo
đúng tính chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết lâu
dài. Tất cả những trường hợp này đều xúc phạm đến phẩm giá của hôn nhân; chúng
phá hủy ý niệm về gia đình; chúng làm suy giảm ý nghĩa của lòng chung thủy.
Chúng nghịch với luật luân lý: hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn
nhân; ngoài hôn nhân, hành vi này luôn luôn là một tội trọng và người vi phạm
bị loại ra khỏi sự hiệp thông bí tích.[35]
Sống thử trước hôn nhân là đi ngược lại với mục đích của
hôn nhân Kitô giáo. Nhờ bí tích Hôn phối hai người nam và nữ trở thành vợ
chồng. Họ trao hiến trọn vẹn, bao gồm thể xác và tinh thần. Hôn nhân là một
trong những điều thiện hảo quí giá nhất của nhân loại, có phẩm giá thiêng liêng
thánh thiện, vì đã được chính Thiên Chúa thiết lập, và được Chúa Kitô thánh
hiến qua bí tích hôn phối. Vì vậy, không thể có hôn nhân thử “thử nghiệm” được.
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã khẳng định lập trường này:
Ngày nay nhiều người đòi hỏi một thứ “quyền thử nghiệm” khi có ý định kết hôn với nhau. Những người dấn thân trong các quan hệ tính dục tiền hôn
dù họ có quyết tâm mạnh mẽ thế nào đi nữa, “những giao hợp tính dục ấy vẫn
không thể bảo đảm quan hệ giữa họ với nhau trong sự chân thật và thủy chung
giữa một người nam và một người nữ, và nhất là không thể bảo đảm giữ cho quan
hệ này khỏi những ý muốn hay thay đổi và thất thường”. Về phương diện luân lý,
sự giao hợp chỉ hợp pháp khi đã chính thức kết hôn. Tình yêu không chấp nhận
thử nghiệm, nhưng đòi hỏi hiến thân cho nhau một cách trọn vẹn và dứt khoát.[36]
Quan điểm của Giáo hội Công giáo là hôn phối không phải
chỉ là chuyện riêng tư thuần túy giữa hai người nam nữ, nhưng còn liên hệ tới
tính hiệp thông trong toàn thể cộng đoàn Giáo hội. Thật vậy, từ đôi hôn phối
Công giáo này, sẽ đem đến một gia đình Kitô với tất cả sự phong phú của cuộc
sống, khả năng giáo dục tri thức và đức tin, trở nên một tế bào sống động của
Giáo hội. Gia đình là tế bào đầu tiên của Giáo hội và được Công đồng Vaticanô
II gọi là “Giáo hội tại gia.”[37] Khi cử hành hôn phối theo nghi thức đạo, đôi vợ chồng
Công giáo bày tỏ quyết tâm dấn thân sống đời hôn nhân theo giới luật của Chúa
và những mong đợi của Giáo hội.
2. Vấn đề ly dị
2.1. Hiện trạng và nguyên nhân của việc ly dị
Những
năm gần đây, chúng ta thấy ngày càng có nhiều tín hữu ra tòa đời ly dị và sau
đó tiến hành một hôn nhân khác. Và Tông huấn Amoris Laetitia cũng cho thấy “Ly dị là một điều bất hạnh, và con
số các vụ ly dị gia tăng là điều rất đáng lo âu.”[38]
Theo
nhận định của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong bài diễn văn tại Tòa Hòa
Giải Tối cao tại Rôma ngày 21.1.1999, thì ngày nay người ta có một “tâm thức
ủng hộ ly dị”. Thật vậy, văn hóa ngày nay, hình như người ta ủng hộ cho việc ly
thân giữa vợ chồng hoặc ly dị như một giải pháp cho những vấn đề của đời sống
lứa đôi. Các đôi vợ chồng đi đến việc ly thân một cách rất dễ dàng trong những
năm đầu sau ngày cưới, trong khi việc ly dị thì có thể xảy ra trong bất cứ giai
đoạn nào của đời sống hôn nhân. Hậu quả của những dữ kiện này thường rất tác
hại trên trẻ em, nhất là trong việc giáo dục và hội nhập xã hội của chúng.
Các
nguyên nhân của việc ly dị gia tăng.[39]
Có thể nêu lên một số nguyên nhân sau đây. Thứ nhất, do động cơ hôn nhân không
đúng đắn, không lành mạnh: những trường hợp kết hôn vì bị ép uổng, lấy nhau vì
tiền bạc, địa vị, tài sản của người kia chứ không phải vì tình yêu đích thực.
Cũng phải đề cập đến cả những trường hợp bị lừa dối vì chưa tìm hiểu kỹ về
nhau. Những cuộc hôn nhân không vì yêu thương, không tự nguyện lấy nhau mà bởi
những lý do không đúng đắn lành mạnh, thiếu sự thành thật, thường sẽ không bền
vững, sau này đễ dẫn tới ly hôn.
Thứ
hai, lập gia đình quá sớm, khi còn chưa phát triển đầy đủ về thể lực và trí
tuệ, chưa ổn định về mặt tâm lý, nên còn nhiều dao động, biến đổi, khiến tình
yêu không bền vững. Ở độ tuổi quá trẻ người ta chưa có ý thức trách nhiệm cao,
nên dễ chán nhau, và sẵn sàng rời bỏ nhau khi nảy sinh tình yêu với một đối
tượng khác.
Thứ
ba, do sự thoái hóa nhân cách: nguyên nhân chính thứ ba có thể đưa đến việc ly
hôn, là người trong cuộc có thể bị một sự thoái hóa của nhân cách, do sự thiếu
căn bản đạo đức, mà không còn giữ được nếp sống tốt đẹp trước, hoặc do sự chán
ngán người hôn phối khi đã chung đụng với nhau một thời gian, không còn hợp
nhau, đối xử với nhau một cách tàn tệ; hay do ảnh hưởng của xã hội, của bạn bè
xấu, đi theo con đường trụy lạc bỏ bê gia đình, lâm vào các tệ nạn như cờ bạc,
rượu chè nghiện ngập, gây đau khổ, bất mãn cho người bạn đời, đưa đến xa rời
nhau.
Thứ
tư, do sự thiếu hòa hợp vợ chồng: giữa hai người, từ quan niệm sống, lối sống,
trình độ kiến thức trình độ xã hội quá chênh lệch. Sự khác biệt quá xa giữa vợ
chồng về những lĩnh vực trên, cũng thường dẫn đến đỗ vỡ vì không chịu được
nhau.
Thứ
năm, vì lý do kinh tế quá kém: vợ chồng phải cực khổ tần tảo mà vẫn không đủ
cơm no áo ấm, hoặc do sự biếng nhác, hoặc do không biết chi tiêu phù hợp thiếu
trước hụt sau mà vợ chồng lìa bỏ nhau. Nhưng cũng cần lưu ý rằng: không hẳn sự
giàu sang sẽ mang lại hạnh phúc, mà có khi quá dư giả, nhàn rỗi, lại sinh nhiều
thói hư tật xấu, đưa gia đình đến đổ vỡ.
Thứ
sáu, do tác động của môi trường xã hội: một trong hai người bị lôi cuốn vào lối
sống xô bồ, tự do buông thả, vào những cách sống không phù hợp với gia đình,
thiếu lành mạnh, thiếu đạo đức. Nhất là những trường hợp phải sống xa vợ, xa
chồng, do công việc làm ăn, lại còn bị bạn bè xấu cám dỗ, nên đưa đến sự cách
mặt xa lòng, chán nản gia đình, không chịu xây dựng, và sống theo sự vị kỷ, từ
đó khiến vợ chồng không còn yêu thương, chấp nhận nhau.
2.2. Hậu quả của ly dị
Ly
dị một thảm trạng, một bất hạnh của hôn nhân, nó dẫn đến rất nhiều hậu quả cho
đương sự, cho gia đình cũng như con cái và cho cả xã hội.
Hậu
quả đối với người trong cuộc. Chính đương sự những người trong cuộc họ phải
chịu những hậu quả trước tiên vì chính họ gây nên. Sau đây là một số hậu quả mà
người ly dị phải gánh chịu:
Xét
về mặt tâm lý, tình cảm xã hội.[40]
Trong tình trạng ở nước ta, và với bản thân người Việt Nam, với sự ảnh hưởng
sâu xa của luân lý sẵn có, dù sao hậu quả của việc ly hôn cũng đem lại nhiều
ảnh hưởng không tốt cho người trong cuộc. Từ việc giao tiếp đến công việc làm
ăn, họ có thể gặp trở ngại do sự đánh giá khắt khe của nhiều người. Từ đó họ
rơi vào nỗi chán chường lẫn mặc cảm tự ti trong cuộc sống. Từ tình trạng như
thế, người ta dễ đi vào con đường bê tha, nghiện ngập, xao lãng hoặc xem thường
mọi bổn phận, mọi trách nhiệm của mình.[41]
Hậu
quả này cũng ảnh hướng đối với con cái. Mỗi
khi vợ chồng ly dị, thì không chỉ họ là người đau khổ mà còn là một thảm họa
đối với con cái. Bởi cha mẹ như là trụ cột vững chắc về tinh thần cũng như vật
chất cho cuộc đời con cái. Thế nhưng mỗi khi trụ cột đó bị gãy đôi thì những gì
tựa vào đó cũng bị đỗ vỡ tan tành. Hậu quả mà con cái phải chịu khi cha mẹ ly
dị đã được tông huấn Amoris Laetitia
đề cập đến: Con cái bao giờ cũng là
các nạn nhân vô tội của các cuộc ly dị. Vì thế, lợi ích của con cái phải là quan
tâm hàng đầu. Các bậc cha mẹ ly thân, không được bắt con cái làm con tin! Chúng
phải lớn lên và biết rằng dù không sống chung, nhưng cha mẹ chúng luôn nói tốt
về nhau.[42]
Ly
dị đã để lại những hậu quả rất lớn trên cuộc đời con cái, chúng không được may
mắn như những đứa trẻ khác là sống trong vòng tay yêu thương, chăm sóc nâng đỡ
của cha mẹ mà đáng lẽ ra chúng phải được hưởng. Những thắc mắc gợi lên trong
đầu chúng là: tại sao cha mẹ lại bỏ nhau? Tại sao cuộc đời tôi lại đau khổ và
kém may mắn như vậy? Những câu hỏi như vậy cứ ám ảnh mãi trong tiềm thức tuổi
thơ trong suốt cuộc đời khiến chúng phải trăn trở.[43]
Hậu
quả của ly dị đối với xã hội: Tông
huấn Familiaris Consortio đã khẳng
định: “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình”.[44]
Xã hội muốn phát triển lành mạnh thì các gia đình trong xã hội phải bền vững.
Bởi vì gia đình là nền móng xây dựng lên xã hội. Tông huấn cũng đề cập đến mối
tương tương quan chặt chẽ giữa gia đình và xã hội:
Bởi vì “Đấng Tạo
hóa đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người”, nên gia
đình trở thành “tế bào đầu tiên và sống động của xã hội”. Gia đình có những
liên hệ chặt chẽ và sống động xã hội vì nó làm thành nền tảng cho xã hội và
không ngừng tiếp sức cho xã hội bằng việc phục vụ sự sống: chính giữa lòng gia
đình đã sinh ra các công dân, và chính trong gia đình mà các công dân ấy lần
đầu tiên thực tập các nhân đức xã hội, là linh hồn cho sinh hoạt và sự phát
triển xã hội. Như thế, vì bản chất và ơn gọi của nó, thay vì đóng khung trên
chính mình, gia đình rộng mở đến những gia đình khác và đến xã hội, và chu toàn
vai trò xã hội của mình.[45]
Gia
đình giàu có, bình yên, hạnh phúc thì xã hội mới trật tự an bình. Bởi gia đình
là nơi các giá trị luân lý được dạy dỗ ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời,
cũng như gia sản thiêng liêng của cộng đồng tôn giáo và gia sản văn hóa được
lưu truyền. Vậy trong gia đình người ta biết học trách nhiệm xã hội và tính
liên đới.[46]
Gia
đình là trường học đầu tiên để giáo dục những đứa trẻ thành những đứa con có
nhân cách, có nhân bản. Gia đình là nền tảng cho xã hội. Thế nhưng mỗi khi nền
tảng không vững chắc, mỗi thành viên không còn gắn kết với nhau, thiếu chất hồ
tình yêu thì sẽ sụp đổ. Gây ảnh hưởng rất lớn cho xã hội.
2.3. Lập trường của Giáo hội về đề ly dị
Nhiều
đôi tân hôn trong ngày cưới đã yêu nhau và hạnh phúc đến độ mọi người nhìn vào
thấy họ thật xứng đôi vừa lứa. Nhưng vài năm sau gặp lại thì biết họ đã ly dị
rồi. Làm sao hai người đã yêu nhau đến thế và đã thề trước nhan thánh Chúa là
sẽ yêu thương, chung thủy với nhau trọn đời lại có thể đường ai nấy đi trong
vòng mới chỉ hai hay ba năm? Thực ra, ly dị là vấn đề của mọi thời đại và mọi
nơi. Trong xã hội chúng ta đang sống, ly dị trở nên phổ biến hơn. Nhiều câu hỏi
được đặt ra: có được phép ly dị vì bất kỳ lý do nào không? Nếu được, hoàn cảnh
nào được phép ly dị?
Giáo
hội luôn mạnh mẽ chống lại sự phân ly trong hôn nhân, chống lại việc ly dị của
vợ chồng. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2384 trình bày:
Ly dị là một xúc
phạm nghiêm trọng đối với luật tự nhiên. Ly dị cố ý phá vỡ khế ước đã được đôi
phối ngẫu tự do ưng thuận, để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn thương
Giao ước cứu độ mà bí tích Hôn phối là dấu chỉ. Sự tái hôn, mặc dầu được luật
dân sự công nhận, càng làm cho tình trạng đổ vỡ thêm nghiêm trọng: người tái hôn,
sau khi ly dị, sống trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên:
Người nam, sau khi bỏ vợ, không được lấy người khác. Người nữ bị chồng bỏ, cũng
không được làm vợ người khác.
Ở
số 2385 sách Giáo lý Hội thánh Công giáo còn trình bày thêm tính chất nghiêm
trọng của ly dị:
Ly dị cũng mang
tính vô luân do sự xáo trộn nó đưa vào tế bào gia đình và vào xã hội. Sự xáo
trộn này kéo theo những tổn hại nghiêm trọng: cho người phối ngẫu bị ruồng bỏ;
cho con cái, bị tổn thương sâu xa bởi sự phân ly của cha mẹ, và thường bị dằng
co giữa cha và mẹ; vì hậu quả lây lan của nó, ly dị thật sự là một tai ương cho
xã hội.
Giáo hội thông cảm, chấp nhận cho ly dị tòa đời khi
có những lý do chính đáng: “Nếu việc ly dị dân sự vẫn còn là phương
cách duy nhất để bảo đảm một số quyền lợi hợp pháp, như việc chăm sóc con cái
hoặc bảo vệ gia sản, thì có thể chịu đựng mà không lỗi phạm về luân lý.”[47] Có
những hoàn cảnh mà Giáo Hội đứng về phía người bị coi là nạn nhân của việc ly
dị, khi bị đối xử bất công:
Có thể xảy ra là
một người trong đôi phối ngẫu là nạn nhân vô tội của việc ly dị do tòa án dân
sự công bố; lúc đó người này không vi phạm mệnh lệnh luân lý. Có sự khác biệt
đáng lưu ý giữa người phối ngẫu thành thật cố gắng trung thành với bí tích Hôn
Phối và bị ruồng bỏ cách bất công, với người phối ngẫu, do trọng tội về phía
mình, phá hủy hôn nhân đã thành sự theo Giáo Luật.[48]
Về vấn đề ly thân, Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy:
“Việc ly thân (separatio) của đôi phối ngẫu, nhưng vẫn duy trì dây liên kết hôn
nhân, có thể là hợp pháp trong một số trường hợp đã được Giáo Luật dự liệu.”[49]
Giáo lý HTCG trình bày thêm về vấn đề ly thân:
Tuy nhiên, có
những hoàn cảnh thực tế đôi phối ngẫu không thể tiếp tục sống chung được, vì
rất nhiều lý do khác nhau. Trong những trường hợp này, Hội Thánh chấp nhận sự
ly thân và chấm dứt việc sống chung của đôi phối ngẫu. Họ vẫn là chồng, là vợ
của nhau trước mặt Thiên Chúa; họ không được tự do để ký kết một hôn ước mới.
Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, giải pháp tốt nhất, nếu có thể, là hòa giải
với nhau. Cộng đoàn Kitô hữu được mời gọi trợ giúp những người đó sống đời Kitô
hữu trong hoàn cảnh của họ, luôn chung thuỷ với dây hôn phối vẫn bất khả phân
ly của họ.[50]
Công đồng Vaticanô II đã tuyên bố hôn nhân là bất
khả phân ly, dù một số ý kiến cho phép ly dị trong một số trường hợp khó khăn:
Bởi một hành vi
nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an
bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã
hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên
kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Những lợi ích của
hôn nhân đòi hỏi vợ chồng phải có sự hiệp nhất với nhau mà không có gì có thể
phá vỡ được.[51]
Công đồng Vaticanô II đã liệt
kê ba lý do không cho phép ly dị: ích lợi của vợ chồng, của con cái và xã hội.
Thứ nhất, ly dị là đi ngược lại lợi ích của
vợ chồng. Việc ly dị đánh mất ý nghĩa và mục đích của sự tự hiến
của hai người cho nhau và lòng trung tín trong tình yêu. Mục đích của việc bảo
vệ và chăm sóc lẫn nhau là một điều tối cần thiết. Điều này chỉ có thể đảm bảo
trong bậc sống hôn nhân khi quan hệ vợ chồng là một quan hệ vĩnh viễn. Tình yêu
chân thật trong đời sống hôn nhân không thể giới hạn trong một khoảng khắc nào
đó, nghĩa là hôm nay thì tôi yêu em, nhưng ngày mai thì không yêu nữa. Việc
khẳng định mối dây ràng buộc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân tạo nên uy
lực rất mạnh nhằm bảo vệ tình yêu vợ chồng và lòng trung thành. Nó đem lại một
động lực giúp đôi vợ chồng chấp nhận chịu đựng những khuyết điểm của nhau trong
kiên nhẫn và bảo tồn sự hiệp nhất, hoà thuận với nhau. Nếu định chế hôn nhân và
gia đình không có một nền tảng vững chắc, thì xã hội sẽ trở nên nghèo nàn, và
điều đó đã làm mất đi cái nét yêu kiều của bộ mặt con người. Con người sẽ trở
nên cô lập, tính toán so đo với nhau và những mối liên hệ giữa con người với
nhau chẳng qua là để vụ lợi. Nó còn làm cho sự đoàn kết mỗi ngày một rạn nứt
lớn hơn.[52]
Thứ hai, vì lợi ích của con cái. Càng
thương nhau, càng chung thủy với nhau, đôi bạn càng chung sức trong trách nhiệm
sinh dưỡng và giáo dục con cái. Kinh nghiệm thực tế minh xác điều đó. Một khi
mối dây liên hệ ràng buộc trong đời sống hôn nhân bị lỏng lẻo, con cái bị tước
đoạt đi tình cảm của bố hoặc của mẹ, hay cả hai; và điều ấy hiển nhiên ảnh
hưởng đến sự tự tin của chúng, việc học hành và gây sự bất ổn trong tâm hồn.
Lợi ích của con cái ít khi được sử dụng để coi đó như một sự ép buộc cha mẹ
không được phép ly dị. Nhưng ngược lại, nó dùng để đấu tranh cho sự bền vững
của mái ấm gia đình.[53]
Thứ ba vì lợi ích của xã hội.
Chỉ có phương cách ấy thì việc giáo dục lành mạnh cho các thế hệ trẻ có thể
được bảo đảm; và sự tương thân, tương trợ đoàn kết lẫn nhau trong cùng một cộng
đoàn mới được bảo vệ và nâng đỡ. Chính quyền không những chỉ có trách nhiệm và
bổn phận giải thể những cuộc hôn nhân bị trục trặc, nhưng họ còn phải có trách
nhiệm cung cấp những dịch vụ tư vấn về phương diện gia đình hầu giúp đỡ việc
hoà giải và tái lập những hôn nhân đã bị đổ vỡ.[54]
Những
điều trên đây được đúc kết trong giáo huấn của Công đồng Vatican II:
Bởi giao ước hôn
nhân, người nam và người nữ “không còn là hai nhưng là một xương thịt”[55] phục vụ và giúp
đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm
nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết
mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái
buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả
phân ly.[56]
3. Bạo hành trong gia đình
Bạo hành gia đình có thể được
định nghĩa là những hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành viên trong gia đình,
thường xảy ra giữa vợ chồng và trong bất cứ mối tương quan tình cảm nào nhằm
nắm được quyền hành hay kiềm chế việc xử thế của một người gần gũi với mình. Bạo
hành trong gia đình là một mô hình do lâu ngày thành thói quen dùng để khống
chế người khác qua việc gây sợ hãi, đe dọa tâm thần hoặc dùng bạo lực. Bất cứ
ai cũng có thể là nạn nhân của bạo hành gia đình.
3.1. Các nguyên nhân của nạn bạo hành
Có nhiều lý do dẫn đến các hành
vi bạo hành, từ việc gia đình không có một chức năng bình thường cho đến sự
thiếu cảm thông; từ sự dồn nén tâm lý của người chồng đến sự khiêu khích của
người phối ngẫu, hoặc vì các chất kích thích như rượu, ma túy, hoặc vì thiếu một
cuộc sống tâm linh cho đến tình trạng kinh tế khó khăn.
Bạo hành gia đình thường có tỷ
lệ cao ở các gia đình có những hoàn cảnh đặc thù như trình độ văn hóa thấp,
bệnh tật, thất nghiệp hoặc nghiện ngập. Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa là
những gia đình giàu có hay trí thức sẽ không
có bạo hành. Theo ủy ban về các vấn đề xã hội, nguyên nhân sâu xa của
bạo hành gia đình bắt nguồn từ tư tưởng bất bình đẳng giới từng tồn tại trong
văn hóa Việt Nam. Từ lâu nay, chế độ phụ hệ, tư tưởng “nam trọng nữ khinh” kéo
theo sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
3.2. Hậu quả của nạn bạo hành
Hậu quả của nạn bạo hành gia đình ảnh hưởng nhiều khía cạnh.
Hậu quả đầu tiên mà bạo hành để lại đó là tình trạng sức khỏe của phụ nữ. Người
phụ nữ bị đánh đập, hành hạ trên thân xác nên các dấu tích của hành động bạo
hành để lại rất rõ nét. Do bị hành hạ thường xuyên nên tình trạng sức khoẻ của
phụ nữ ngày càng yếu đi. Bên cạnh những vết thương lòng ngay lúc bị hành hạ là
những ấm ức, buồn tủi lâu dài làm cho người phụ nữ trở nên ít nói, lâu ngày sẽ
trở thành bệnh. Ngoài sự ảnh hưởng về sức khoẻ, thì những lúc vợ chồng ẩu đả
cũng là nguyên nhân đập phá đồ đạc trong nhà…. Từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, họ
sẵn sàng đi đến ly hôn để thoát khỏi cảnh đau khổ.
3.3. Giáo hội nói về phẩm giá và quyền bình đẳng của con người
Con người
được tạo dựng “theo hình ảnh và giống như” Đấng Tạo Hóa, nhưng do nguyên tội
hình ảnh này đã bị biến dạng. Nay nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô, hình ảnh này
chẳng những được phục hồi vẻ đẹp nguyên tuyền, mà còn rực rỡ hơn xưa, vì được
thông phần thần tính của Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người. “Hình ảnh này rực
sáng trong sự hiệp thông nhân vị, giống sự hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa”.[57] Trong gia đình, nếu các thành
viên ý thức về sự bình đẳng phẩm giá nơi mọi người, biết tôn trọng nhân vị của
nhau, thì ắt hẳn không còn nạn bạo lực, thay vào đó là bầu không khí yêu thương
nhau, coi người khác như “cái tôi thứ hai”, quan tâm đến sự sống của nhau, giúp
nhau sống xứng đáng nhân phẩm.[58]
Đối với gia đình Công giáo, nếu
có nạn bạo hành vượt quá sức chịu đựng của người phụ nữ, Giáo hội cho phép ly thân chứ không được ly dị. Hiển nhiên việc ly thân
là phương thức cuối cùng sau khi đã dùng mọi nỗ lực để giảm thiểu nạn
bạo lực mà không thành.[59]
4. Sự sống
4.1. Vấn đề phá thai
Giáo hội luôn bênh vực sự sống
và những định luật tự nhiên do Thiên Chúa thiết định. Vì thế Giáo hội cấm mọi
hình thức phá hủy sự sống. Cụ thể, thông điệp Humanae Vitae ghi rõ: “Không thể nào chấp nhận việc điều hoà sinh
sản bằng cách trực tiếp huỷ diệt bào thai đã thành hình, đó là mầm sống đang
diễn tiến, nhất là cố ý phá thai, dù với lý do y tế cũng không được.”[60]
Sự sống con người phải được
tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai. Ngay khi bắt đầu hiện hữu,
con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm người, trong đó có quyền
được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội.[61] Ngay từ thế kỷ thứ nhất,
Hội thánh đã xác định phá thai là một tội ác. Giáo huấn ấy bất biến, không hề
thay đổi. Trực tiếp phá thai dù là mục đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm
trọng luật luân lý.[62] Cộng tác vào chính việc
phá thai là một lỗi nặng. Theo Giáo luật, Hội thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ
phạm tội này.[63]
Làm như thế Hội thánh không có ý giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng
muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác, sự thiệt hại không thể sửa
chữa đã gây ra cho đứa trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em và cho toàn
xã hội.
4.2. Truyền sinh nhân tạo
Giáo hội không cho phép sử dụng
những phương pháp thụ thai nhân tạo. Huấn thị Hồng ân Sự sống ghi rõ:
Về mặt luân lý, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
và thụ thai nhân tạo vẫn không thể được chấp nhận, vì tách rời hành vi tính dục
với việc truyền sinh. Sinh sản con cái không còn là một hành vi của hai con
người hiến thân cho nhau, nhưng sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào
tay các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và
vận mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược
với phẩm giá và sự bình đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái. Để cho việc
truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng mối dây liên
hệ giữa những ý nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống nhất của bản
tính con người.[64]
4.3. Lập trường của Giáo hội
Công đồng Vaticanô II trong
hiến chế Gaudium et Spes đã nói về sự
sống con người:
Tất cả những gì đi ngược với chính sự sống, như
giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm
dịu, hoặc tự tử trực tiếp; tất cả những gì xâm phạm sự toàn vẹn của con người,
như cắt bỏ một phần thân xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý;
tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức
độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ
nữ và trẻ con…Và trong khi làm thối nát nền văn minh nhân loại, thì tất cả
những điều trên lại càng bôi nhọ chính những kẻ chủ động hơn là bôi nhọ những
kẻ phải chịu sự nhục mạ, đồng thời cũng xúc phạm nặng nề đến danh dự của Ðấng
Tạo Hóa.[65]
Sách Giáo lý Công giáo đã viết:
Sự sống con người là linh thánh, vì từ nguồn gốc,
nó là hành động sáng tạo của Thiên Chúa, và mãi ở trong liên lạc đặc biệt với
Thiên Chúa là cùng đích nó. Chỉ mình Thiên Chúa là chủ sự sống, từ đầu đến
cuối, không ai, bất cứ hoàn cảnh nào, có thể đòi cho mình quyền trực tiếp giết
người vô tội.[66]
Huấn thị của Bộ Đức tin: “Hữu
thể con người phải được tôn trọng và đối xử như ngôi vị người từ lúc thụ thai
tới lúc chết.”[67]
Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư mục vụ về Môi trường Giáo dục Gia đình Công
giáo đã nhắn nhủ cộng đồng dân Chúa:
Con người dù đẹp hay xấu, dù thông minh hay tối dạ, đều là
người đã được Thiên Chúa dựng nên
và được Ngài yêu thương.
Sự sống của người ấy nằm trong tay Thiên
Chúa và Con Thiên Chúa đã chết trên thập giá cho người ấy. Do đó, những can thiệp của khoa học
nhằm lựa chọn giới tính, những hành vi giết người như phá thai, làm chết êm
dịu… đều đi ngược với phẩm giá con người và chống lại Thiên Chúa, vì chúng biến
con người thành một thứ hàng hóa hay một sản phẩm thay vì là một sinh linh cao
quý mang hình ảnh của Đấng Tối Cao.[68]
III. VÀI ĐỀ XUẤT GIÁO DỤC ĐỨC TIN &
HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ
1.
Giáo dục về đức tin
1.1. Cuộc sống của con người
như một ơn gọi đến với tình yêu
như một ơn gọi đến với tình yêu
Thiên
Chúa là Tình yêu và nơi chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông
yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ
theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên
Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời
gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm
sinh của mọi người.[69]
Đời
sống con người chỉ có ý nghĩa khi hướng về tình yêu và tồn tại trong tình yêu.
Nền giáo dục chân chính và việc đào tạo con người, nhằm đạt tới cùng đích của
nó. Cùng đích của con người chính là sự viên mãn trong tình yêu. Sự viên mãn
này chính là sự kết hợp với nhau nên một như hình ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa là
một, và chỉ có thực hiện được qua hành vi tự hiến chân thành.[70]
1.2. Giáo dục tính dục và đức khiết tịnh
Tính dục là cấu trúc định dạng hiện hữu của con người.
Nó vừa có chiều kích bản năng, vừa có chiều kích nhân bản: làm phong phú toàn
thể con người, mở ra với tha nhân trong tương quan tình yêu hiệp thông và hiến
dâng. Từ ngàn xưa, tính dục được xem là một thực tại thánh thiêng, được thần
thánh hóa trong tôn giáo; được giải thích bằng những huyền thoại thần thiêng…
Trong bối cảnh văn hóa hiện này, ý nghĩa chân thận của tính dục đang bị méo mó,
bị tách rời khỏi mối liên hệ thiết yếu thâm sâu với nhân vị, Hội thánh ý thức
việc giáo dục tính dục là một sứ mạng cấp bách, nhằm đem lại cho con người cái
đúng đắn về tính dục, vùn trồng đức khiết tịnh. Trong đức khiết tịnh, sự trao
hiến cho nhau của đôi vợ chồng trở nên trọn vẹn, và con cái được sinh ra trong
khung cảnh tình yêu đích thực[71].
Cũng trong đức khiết tịnh, tình bằng hữu được nảy nở nơi người sống đời độc
thân thánh hiến, họ trở thành chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu đang hiện diện
giữa mọi người.[72]
Việc giáo dục tính dục – là quyền lợi và bổn phận căn bản của cha mẹ – phải
luôn luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn chu đáo của cha mẹ, tại gia đình
cũng như ở các trung tâm giáo dục được cha mẹ chọn lựa và kiểm soát … Trong bối cảnh
ấy, không thể nào chối bỏ việc giáo dục đức khiết tịnh, là nhân đức làm phát
triển sự trưởng thành đích thực của ngôi vị, làm cho ngôi vị có khả năng kính
trọng và nâng cao ý nghĩa hôn nhân của thân xác. Hơn nữa, cha mẹ Ki-tô hữu cần
dành một sự chú ý và chăm sóc đặc biệt để nhận ra những dấu hiệu cho thấy Thiên
Chúa muốn mời gọi họ giáo dục sự trinh khiết, như một hình thức tuyệt vời của
sự tự hiến làm nên chính ý nghĩa cho tính dục con người.[73]
1.3. Giáo dục trong gia đình Kitô hữu
Theo
giáo huấn của Hội thánh, thì cha mẹ phải là “những nhà giáo dục đầu tiên và
chính yếu” của con cái. Còn các Giáo Lý viên chỉ là những người phụ giúp cha mẹ
trong sứ mệnh giáo dục này. Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo của Công đồng
Vaticanô II viết:
Vì là người
truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo
dục chúng và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của
chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ
khuyết được.[74]
Theo
Tông Huấn Familiaris Consortio thì
quyền lợi và nhiệm vụ giáo dục của cha mẹ là điều thiết yếu, vì việc giáo dục
liên quan đến việc truyền sinh; vai trò này là vai trò căn bản và chính yếu so
với vai trò của những người khác, bởi vì sự liên hệ độc nhất và yêu thương giữa
cha mẹ và con cái; không ai có thể thay thế được và chuyển nhượng được, như thế
không ai có thể hoàn toàn uỷ quyền cho người khác hay để cho người khác cướp
đoạt quyền này.[75]
Như vậy, cha mẹ có vai trò rất quan trọng của
trong việc giáo dục con cái. Đôi khi vai trò này xem ra vượt khả năng của một
số phụ huynh. Dù chúng ta có khả năng hay không, thì chính chúng ta là những
người chịu trách nhiệm về con cái của mình. Đồng thời, không ai có thể hiểu
biết và yêu thương con cái chúng ta hơn
chúng ta. Cho nên, dù muốn dù không, chúng ta cũng phải lãnh trách nhiệm
làm những nhà giáo đầu tiên và chính yếu của con cái chúng ta. Dù cha mẹ có là
những nhà giáo bất toàn, việc giáo dục của cha mẹ vẫn tốt hơn là khoán trắng
cho người khác giáo dục con cái thay cho chúng ta.
2. Hoạt động mục vụ
2.1. Mục vụ chuẩn bị đời sống hôn nhân
Việc Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân
gia đình rất quan trọng, bởi vì những đổi thay đến từ xã hội hiện đại đang tìm
cách phá đổ gia đình là định chế căn bản của xã hội và Giáo hội. Vì thế, cần có
sự chuẩn bị tương xứng làm sao để các bạn trẻ có thể lãnh nhận những trách
nhiệm trong tương lai, giữa những cuộc khủng hoảng về các giá trị và về những
tiêu chuẩn luân lý khiến họ không đủ khả năng đương đầu với những thách đố mới.[76]
Giáo hội cần phải cổ võ những chương trình hôn nhân phong
phú và hiện hữu, để hết sức loại trừ những khó khăn mà trong đó biết bao gia
đình đang phải đối phó, và hơn nữa, để tích cực dẫn đưa các cuộc hôn nhân đến
chỗ thành công và trưởng thành trọn vẹn.[77] Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã dạy trong tông huấn Familiaris Consortio rằng chuẩn bị hôn
nhân phải được xem xét và thực hiện theo một trình tuần tự và liên tục và liên
tục, qua ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị
gần và chuẩn bị liền trước bí tích.[78]
2.2. Mục vụ đối với những người ly thân và ly
dị không tái hôn
Cuộc
sống vợ chồng gặp những hoàn cảnh khó khăn nặng nề đến nỗi họ không thể sống
chung được nữa, và ly thân là phương cách cuối cùng của họ. Trong các trường
hợp này, Giáo hội cho phép vợ chồng được ly thân nhưng vẫn phải trung thành với
dây hôn phối bất khả phân ly.
Còn
về vấn đề ly dị, theo quan điểm của Hội thánh, ly dị là tình trạng phi luân, vi
phạm nghiêm trọng đến qui luật tự nhiên, “làm xáo trộn gia đình và xã hội, làm
tổn hại đến giao ước cứu độ mà bí tích hôn phối là dấu chỉ.”[79]
Tuy nhiên, “nếu một trong đôi vợ chồng là nạn nhân vô tội của phán quyết ly dị
do tòa án dân sự, người này không vi phạm luật luân lý.[80] Trước hết, để tránh việc ly thân hoặc ly dị xảy ra, cộng đoàn tín hữu
cùng với sự hỗ trợ của phòng tư vấn hôn nhân gia đình Công giáo nỗ lực quan tâm
sinh hoạt của các gia đình, giúp họ tháo gỡ được những nguyên nhân gây ra khó
khăn trong đời sống gia đình ngay từ ban đầu. Khi tình trạng ly thân hoặc li dị
không thể tránh được, đôi vợ chồng, nhất là người người phối ngẫu vô tội, cần
được quan tâm đặc biệt và tế nhị như TH Familiris
consortio đã đề cập:
Sự cô đơn và nhiều khó khăn khác nữa thường là số phận dành cho người phối
ngẫu bị phân ly, nhất là nếu người ấy vô tội. Trong trường hợp đó, cộng đồng
Giáo hội phải nâng đỡ người ấy hơn bao giờ, phải đem lại cho người ấy sự
quí mến, liên đới cảm thông và giúp đỡ cụ thể để người ấy có thể trung thành
ngay cả trong tình cảnh khó khăn của mình; phải giúp người ấy biết vun trồng sự
tha thứ mà tình yêu thương Kitô giáo đòi hỏi và biết luôn luôn sẵn sàng nối lại cuộc sống vợ chồng trước kia.[81]
2.3. Vấn đề rước lễ đối với những ai ly dị -
tái hôn
Liên
quan đến vấn đề người ly dị tái hôn có được rước lễ hay không, Giáo lý Hội
thánh Công giáo khẳng định:
Nếu những người
ly dị lại kết hôn theo luật đời, họ ở trong một tình trạng nghịch với luật
Thiên Chúa. Bởi vậy họ không thể rước lễ bao lâu còn tồn tại tình trạng này.
Cũng vì lý do này, họ không thể thi hành một số trách nhiệm trong Giáo Hội. Sự
hoà giải nhờ bí tích Sám hối chỉ có thể được ban cho những người thành thực hối
hận vì đã phạm đến dấu hiệu của giao ước và của sự trung thành với Chúa Kitô,
và quyết chí sống trong sự khiết tịnh trọn vẹn.[82]
Giáo lý còn nói thêm:
Sự tái hôn của
những người đã ly dị khi người phối ngẫu hợp pháp vẫn còn sống, là điều trái
nghịch với ý định và luật của Thiên Chúa đã được Chúa Kitô giảng dạy. Tuy họ
không bị tách rời khỏi Giáo hội, nhưng họ không thể tới bàn tiệc Thánh Thể để rước Mình Chúa. Nhưng khuyên họ sống
đời sống Kitô hữu của mình bằng cách giáo dục con cái trong đức tin.[83]
Tông Huấn Familiaris
Consortio đoạn 84 nói về những người ly dị đã tái hôn và việc rước lễ của
họ có những qui định chủ yếu như sau: Các mục tử và các cộng đoàn cần giúp các
tín hữu ly dị tái hôn vói lòng bác ái cao độ. Họ vẫn thuộc về Giáo hội và có
quyền được chăm sóc mục vụ cũng như cho họ tham dự vào đời sống của Giáo hội.
Đặc biệt, họ không thể được rước lễ vì hai lý do: thứ
nhất, lý do nội tại là từ thực trạng sống của mình đã tự làm cho họ trở nên mất
đi khả năng rước lễ và và tình trạng của họ mâu thuẫn một cách khách quan với
thực tại hiệp thông trong bí tích Thánh Thể. Thứ hai, nếu cho họ rước lễ có thể
gây cho các tín hữu đi tới chỗ sai lạc, hiểu lầm giáo lý của Giáo Hội về tính
bất khả phân ly của hôn nhân Kitô giáo.
Cấm tất cả mọi chủ chăn, dù bất cứ vì nguyên do nào hay
bất cứ vịn cớ gì, ngay cả vì lý do mục vụ, đều không được cử hành bất cứ một
thứ nghi thức nào cho những người đã ly dị nay kết hôn lại… vì điều đó sẽ làm
cho người ta có cảm tưởng rằng việc cử hành mới này thành sự và như thế sẽ đưa
người ta đến chỗ hiểu sai lạc về sự bất khả phân ly của hôn nhân đã kết ước
cách thành sự.[84]
Tông huấn Sacramentum
Caritatis của Đức giáo hoàng Benedictô XVI, năm 2007 đã dành riêng số 29 đề cập mối liên hệ giữa Bí tích Thánh thể
và tính bất khả phân lý của hôn nhân. Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI khẳng định
một lần nữa là Giáo hội không thể chấp nhận cho những người ly dị và tái hôn
được rước lễ xét vì tình trạng và điều kiện đời sống của họ mâu thuẫn một cách
khách quan với sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo hội, được biểu thị
và tái hiện trong bí tích Thánh Thể.
Trong
Tông huấn Amoris Laetitia, Đức Giáo
hoàng Phanxicô dành toàn bộ chương 8 để suy tư về việc Giáo hội cần phải đối xử
như thế nào đối với những người Công giáo đã ly dị và tái hôn. Đức Giáo hoàng
không ban hành một luật mới hoặc quy định cho phép người Công giáo tái hôn có
thể rước lễ, nhưng ngài đã thay đổi đáng kể lập trường của Giáo hội đối với họ.
Giống như tài liệu chung kết Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình 2015, Đức
Giáo hoàng kêu gọi sự “biện phân” mục vụ theo các tình huống cá nhân.
Đề
cập đến các tình huống khác nhau mà người tái hôn có thể rơi vào, Đức Giáo
hoàng Phanxicô bàn về “các yếu tố giảm nhẹ” mà giáo sĩ nên xem xét trong sự
biện phân mục vụ của họ khi làm việc với người tái hôn:
Vì lợi ích của sự thật, các ngài buộc phải biện phân các hoàn cảnh một các
thận trọng’. Mức trách nhiệm không giống nhau ở mọi trường hợp, và có những
nhân tố khiến người ta mất cả khả năng đưa ra quyết định. Do đó, dù giáo huấn
đã được đặt để cách rất rõ ràng, nhưng các mục tử phải tránh bất cứ phê phán
nào không xem xét tới tính phức tạp của các tình huống khác nhau, và điều cần
là phải lưu ý tới cách người ta cảm nghiệm và chịu buồn khổ như thế nào do thân
phận của họ gây ra.”[85]
Theo tình thần Tông huấn Amoris Laetitia thì những người ly di tái hôn cần được sự giúp đỡ
với tấm lòng bác ái rộng mở của các chủ chăn và toàn thể cộng đoàn tín hữu, vẫn
còn có thể dự phần vào đời sống của Hội thánh. Họ không được hiệp thông trong
Thánh Thể, tuy nhiên, những người ly dị tái hôn vẫn là Kitô hữu, vẫn là phần tử
của dân Chúa. Họ chỉ không có được sự hiệp thông trọn vẹn nơi Giáo hội, nên cần
có những hình thức quan tâm và gần gũi đối với họ. Như vậy,
tông huấn không trực tiếp trả lời câu hỏi: người ly dị tái hôn có được rước lễ
không? Thay vào đó, Đức Giáo hoàng đề nghị áp dụng “luật tiệm tiến” trong mục
vụ với lưu ý rằng đó không phải là “tính tiệm tiến của lề luật”, được thể hiện
qua ba động từ quan trọng: đồng hành, phân định và hội nhập.
2.4. Những người công
giáo kết hôn theo hôn phối dân sự
Vì nguyên do ý thức hệ hay vì các lý do thực tiễn nào đó,
những người hôn phối theo luật dân sự, nhưng từ chối cử hành hôn phối tôn giáo.
Đây cũng là một sự dấn thân cho tình trạng sống chung nhất định, nhưng tính bền
vững của loại hôn nhân này không bền vững, viễn tượng ly dị vẫn có thể xảy ra.
Sự kết hợp giữa họ và Hội thánh bị rạn nứt, họ không được rước lễ.
Hoạt
động mục vụ cần thắm đượm tình bác ái đối với những người trong tình trạng này,
nhằm giúp họ biết phân định và chọn lựa đời sống theo đức tin, ân sủng họ nhận
được khi chịu phép Thanh tẩy; trở lại sinh hoạt với cộng đoàn Kitô hữu và hợp
thức hóa tình cảm của mình.[86]
2.6. Mục vụ những người
chung sống không có hôn nhân
Đây là hình thức người nam và người nữ sống chung với
nhau như vợ chồng, nhưng mối dây liên kết của họ không có sự ràng buộc bởi một
định chế công khai cả dân sự lẫn tôn giáo. Đời sống chung của họ gây hậu quả
nghiêm trọng trên bình diện tôn giáo và xã hội. Theo tinh thần của
Tông huấn Familiaris Consortio, với
những hoàn cảnh này, cộng đoàn Kitô hữu và những vị chủ chăn cần tiếp cận với
tấm lòng bao dung, đối thoại trong tình huynh đệ, để có thể nhận biết rõ nguyên
nhân dẫn đến việc sống chung không hôn nhân, và kiên nhẫn khai sáng cho những
người này. Nếu sự kết hợp của họ có nền tảng tình yêu hỗ tương chân thành, cộng
đoàn mục vụ cần giúp họ vượt qua những cản trở khách quan và nội tại, tiến tới
hợp thức hóa tình cảm của họ.
KẾT LUẬN
Như đã
trình bày, Hôn nhân xuất hiện ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo của Thiên
Chúa. Thiên Chúa đã sáng tạo hôn nhân và đã khắc ghi ơn gọi hôn nhân vào trong
bản tính của con người khi tạo dựng nên con người có nam có nữ. Chúa Giêsu đã
nâng hôn nhân lên hàng bí tích. Và Chúa đã
dạy về tính bất khả phân ly của đời sống hôn nhân, đây là chân lý mà chúng ta
không thể thay đổi được. Vì vậy, khi đánh giá về hôn nhân, một mặt chúng ta dựa
vào lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh, nhưng mặt khác không nên áp dụng
một cách cứng nhắc thiếu đi sự cảm thông đối với những
người có hôn nhân sai với luật Hội thánh.
Vì
thế, vấn đề mục vụ cho những trường hợp đặc biệt cần có những phương pháp thích
hợp. Tông huấn Amoris Laetitia
của Đức Giáo hoàng Phanxicô đã hướng dẫn chúng ta có cái nhìn “bác ái mục vụ” với những người gặp
khó khăn trong hôn nhân, theo đó Giáo hội cần thay đổi đường lối mục vụ:
cần hòa nhập hơn là loại trừ, cần phải gần gũi với những gia đình rối ren, giúp
họ đến gần với Thiên Chúa, thay vì lên án buộc tội. Không phải tất cả những
người rối ren đều ở trong tình trạng tội trọng, mất ơn nghĩa với Chúa.[87]
[1] HĐGMVN,
Thư chung Thánh hóa Gia đình, ngày
11/10/2002, số 9.
[2] Xc. St 1,26-17.
[3] St 2,18.
[4] St 2,19-20.
[5] Mt 19,8.
[6] Mc 10,11-12.
[7] Mc 10,6-7; St 1,27; 2,24.
[8] Mc
10,9.
[9] Rm
7,1-3.
[10] 1Cr
7,10,11.
[11] Xc. 1Cr
11,3-5.
[12] 1Cr 7,3-4.
[13] Xc. Ep 5,21-25.
[14] Xc. Ed 16,8.
[15] Ep 5,25-26.
[16] Giáo
lý Hội thánh Công giáo, số 1617.
[17] 1Cr 7,10.
[18] 1Cr 7,11.
[19] Xc. 1Cr
7,12-13.
[20] Xc. 1 Cr 7,15.
[21] Trích lại
trong Nguyễn Văn Trinh, Bí tích Hôn phối –
tập VII, tr. 138.
[22] Ibid., tr.136.
[23] Ibid., trang 140.
[24] Xc. Ibid., trang 94.
[25] Xc. Ramon Garcia de Haro, Hôn nhân và gia đình trong các tài liệu của
huấn quyền, Nguyễn Văn Dụ chuyển ngữ, tr. 93.
[26] Xc. Công đồng
Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 47 –
52.
[27] Công đồng
Vaticano II, Gaudium et Spes, số 49.
[28] Ibid., số 50.
[29] Ibid.
[30] Xc. Phaolô
VI, Humannae Vitae, số 9.
[31] Gioan Phaolô
II, Famaliaris Consortio, số 18.
[32] Xc. Ibid., số
11.
[33] Ibid., số 80.
[34] Xc. Lê
An Phong, Hôn nhân theo kiểu Sống thử –
sống chung và những vấn đề cần suy nghĩ, truy cập ngày 15/11/2016; http://caunguyenbangtraitim.com/html
[35] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số
2390.
[36] Ibid., số 2391.
[37] Công đồng Vaticanô II, Lumen Gentium, số 11.
[38] ĐGH Phanxicô, Amoris Laetitia, số 264.
[39] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, Nxb Thanh Niên, 1999, tr. 184.
[40] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, tr. 192.
[41] Xc. Ibid., tr. 193.
[42] Xc. Phanxicô, Amoris Laetitia, số 245.
[43] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, tr. 194.
[44] ĐGH Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 86.
[45] Ibid., số 42.
[46] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, tr. 195.
[47] Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2383
[48] Ibid., số 2386.
[51] Công đồng
Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 48.
[52] Xc. Christian Ethics, Thần học luân lý chuyên biệt, tập 3, tr. 131.
[53] Xc. Ibid.
[54] Xc. Christian Ethics, Thần học luân lý chuyên biệt, tập 3, tr.131.
[55] Mt 19,6.
[56] Công đồng
Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 48.
[57] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1701,
1702.
[58] Ibid., số
1931, 1935.
[59] Xc. ĐGH Gioan
Phaolô II, Famaliaris Consortio, số
83.
[60] ĐGH Phaolô
VI, Humanae Vitae, số 14.
[61] Xc. Bộ
Đức tin, Huấn thị Hồng ân Sự sống, số
2.
[62] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2271.
[63] Xc. Giáo Luật, điều 1398.
[65] Công đồng
Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 27.
[67] Bộ Đức Tin, Huấn thị hồng ân Sự sống, số 2.
[68] HĐGMVN, Thư mục vụ về Môi trường Giáo dục Gia đình
Công giáo, ngày 11/10/2002, số 18.
[69] Xc. Gioan
Phaolô II, Famaliaris consortio, số
11.
[70] Công đồng
Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 24.
[71] ĐGH Gioan
Phaolô II, Famaliaris Consortio, số
32
[72] Giáo lý Hội thánh Công Giáo, số
2346, 2347.
[74] Công
đồng Vaticano II, Gravissimum Educationis,
số 3.
[75] Xc.
Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio,
số 36.
[76] Ibid.,
số 66.
[77] Ibid.
[79] Giáo lý Hội thánh Công
giáo, số 2384.
[80] Ibid.,
số 2386.
[81] Gioan
Phaolô II, Familiaris Consortio, số
83.
[82] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1650.
[83] Ibid.,
số 1665.
[85] Ibid.,
số 79.
Đăng nhận xét