Hôn nhân gia đình, câu chuyện tình bắt nguồn từ Thiên Chúa

Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn
che lấp đi phần nào sự cao đẹp
của những giá trị hôn nhân và gia đình,
nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin
vào quyền năng Thiên Chúa, để trở thành sứ giả
loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay.[1]
Ts. Phêrô Trần Đại Lượng - Dòng Kitô Vua
Thời gian gần đây, Giáo hội quan tâm cách đặc biệt đến đời sống hôn nhân và gia đình. Trong hai năm 2014 – 2015, hai Thượng Hội đồng Giám mục liên tiếp được triệu tập để bàn về các vấn đề hôn nhân gia gia đình. Kết quả của Thượng Hội đồng Giám mục là Tông huấn Amoris Laetitia của Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành ngày 8 tháng 4 năm 2016. Còn ở Việt Nam, Đại Hội thứ XIII của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dành ba năm từ 2016 đến 2019 cho vấn đề Mục vụ Gia đình. Điều này cho thấy sự quan tâm về đời sống hôn nhân gia đình trong giai đoạn hiện nay.
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy hôn nhân và gia đình đang đối diện với nhiều thử thách, với sự mong manh và dễ đổ vỡ, trong đó có nhiều vấn đề rất khó giải quyết cách trọn vẹn, chẳng hạn như ly dị, hôn nhân đồng tính, người ly d tái hôn… Qua bài viết này, trước hết người viết muốn nhìn lại nền tảng hôn nhân gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa; thứ đến, thử nhận diện những thách đố trong đời sống hôn nhân gia đình hiện nay; và cuối cùng là một vài đề xuất theo hướng mục vụ.
I. NỀN TẢNG HÔN NHÂN TRONG Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA
Sau khi tạo dựng vũ trụ, cùng muôn vật muôn loài, Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Ngài, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.[2] Đó là ý định nguyên thủy của Thiên Chúa về đời sống hôn nhân.
1. Theo Thánh kinh
1.1. Cựu ước    
Khi tạo dựng con người theo hình ảnh Mình, Thiên Chúa khắc ghi ơn gọi tình yêu vào trong tâm khảm của họ, để họ sống yêu thương và hiệp thông với nhau. Thiên Chúa ban cho Adam một người phối ngẫu tương xứng. “Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.”[3] Thiên Chúa đã tạo dựng và ban cho Ađam “mọi dã thú, mọi chim trời… nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng.”[4] Chỉ khi Thiên Chúa tạo dựng người phụ nữ và dẫn tới cho Ađam thì khoảng trống vắng nội tâm nơi ông mới được lấp đầy. Món quà Thiên Chúa trao ban cho Ađam không nằm ngoài con người của ông nhưng là xương là thịt của ông. Ađam gọi nàng là “đàn bà” không phải như một người chủ gọi tên các sinh vật, mà là tiếng gọi của hai con người cùng phẩm giá với nhau. Họ gắn bó với nhau trong tình yêu và hiệp thông bao gồm cả thân xác và tâm hồn, “cả hai trở thành một xương một thịt”. Đây chính là đỉnh cao của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì tình yêu liên vị hiệp nhất, con người mới trở nên thực sự hoàn hảo, giống hình ảnh của Thiên Chúa.
1.2. Các sách Tin Mừng        
Chúa Giêsu đề cao giá trị của hôn nhân. Hôn nhân là quí giá mà Thiên Chúa đã ban cho đôi vợ chồng và họ không được phép phá hủy mối dây hôn nhân này. Con người phải bảo vệ tối đa giá trị của hôn nhân. Về vấn đề Môsê đã cho phép ly dị, được Chúa Giêsu trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông Môsê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”,[5] nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy. Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ quan điểm của Ngài là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ mối dây liên kết này.
Trong đoạn Tin Mừng Máccô 10,11-12, Chúa Giêsu ngăn cấm vợ chồng bỏ nhau và cả vấn đề tái hôn, Người coi việc tái hôn là ngoại tình. Vì qua hôn nhân, hai vợ chồng thuộc về nhau vĩnh viễn, thế nên khi ly dị và tái hôn họ đều phạm tội ngoại tình, vì đã phá hủy hôn phối trước; hôn phối này luôn có giá trị vĩnh viễn trước mặt Thiên Chúa.
Chúa Giêsu coi người nam và người nữ ngang hàng với nhau trước mặt Thiên Chúa trong vấn đề hôn nhân. Mỗi người đều phải trung thành với nhau trong hôn nhân. “Ai rẫy vợ mà cưới vọ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.”[6]
Cũng trong đoạn Tin Mừng Máccô 10,11-12, Chúa Giêsu tái xác nhận lý tưởng về hôn nhân được sắp đặt từ thuở ban đầu. Người dẫn dắt những người đặt câu hỏi cũng như những người nghe về lúc sáng tạo, “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.”[7] Rồi chính Chúa Giêsu thêm vào lệnh truyền của Người: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”[8] Như thế, Chúa Giêsu dạy hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập, chính Thiên Chúa nối kết hôn nhân, hôn nhân là bất khả phân ly, phá vỡ hôn nhân là xúc phạm đến Thiên Chúa.
1.3. Thánh Phaolô
Thánh Phaolô cho rằng hôn nhân là kết hợp với nhau suốt đời và sự kết hợp này là bất khả phân ly: “Luật chỉ có hiệu lực đối với người ta, bao lâu người ta còn sống. Ví dụ như người đàn bà có chồng, thì luật buộc theo chồng bao lâu chồng còn sống. Nhưng nếu chồng chết, thì người vợ không còn bị luật ràng buộc với chồng nữa.”[9] Thánh Phaolô lập lại và xác nhận luật của Chúa khi ngài đề cập đến các vấn đề trong cộng đoàn Côrintô: “Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.”[10]
Còn về mối tương quan giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân, theo thánh Phaolô, chồng là đầu của vợ trong tương quan hôn nhân.[11] Ngài nhấn mạnh về quyền bình đẳng và trách nhiệm hỗ tương giữa hai vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ.”[12] Quan niệm hỗ tương này cũng được nói lên rõ ràng trong thư gởi tín hữu Êphêsô: vợ chồng nên phục tùng lẫn nhau vì tôn trọng và bổn phận đối với Chúa Kitô: vợ đối với chồng, chồng đối với vợ trong yêu thương.[13]
Mặt khác, chồng là “đầu của vợ” (Cl 3,18) không có nghĩa là chồng có quyền cai trị vợ, nhưng là chồng được lệnh yêu thương vợ mình với tình yêu hy sinh như Chúa Giêsu đã yêu thương Hội thánh. Theo thánh Phaolô, làm đầu bao giờ cũng phải được thể hiện qua sự hy sinh bản thân chứ không qua sự đòi hỏi quyền lợi cho chính mình.
Sự kết hợp giữa vợ và chồng như sự kết hợp của Chúa Kitô và Hội thánh. Cựu Ước đã mạnh dạn diễn tả sự kết hợp giao ước giữa Thiên Chúa và Israel bằng ngôn từ hôn nhân,[14] báo trước sự linh thiêng và giá trị của hôn nhân. Theo truyền thống này, thánh Phaolô đã diễn tả mối tương quan hôn nhân giữa vợ chồng qua mối tương quan tương tự giữa Chúa Kitô và Hội thánh: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh.”[15] Ngài còn nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.”[16]
Về vấn đề ly dị, trong cộng đoàn Côrintô có một số phụ nữ đã bỏ chồng, thánh Phaolô phản đối bằng cách dùng lệnh của Chúa Giêsu: “vợ không được bỏ chồng”,[17] nhưng nếu đã bỏ chồng thì phải ở độc thân. Lệnh này áp dụng cho cả chồng lẫn vợ. Tuy nhiên, khi ly dị đã thực sự xảy ra, thánh Phaolô cũng nhượng bộ như Chúa Giêsu và theo một tiêu chuẩn rõ ràng: nếu ly dị có xảy ra, thì không thể tái hôn để tránh tội ngoại tình. Người ly dị phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng hoặc ngược lại.[18]
Trường hợp ngoại lệ, đó là chồng hay vợ có đạo có vợ hay chồng ngoại đạo thì nên cư xử làm sao? Câu trả lời của thánh Phaolô rất phù hợp với điều ngài đã nói trước đây: tín hữu không được thay đổi trong quan hệ hôn nhân của họ; tín hữu bị ràng buộc với người phối ngẫu cho đến khi mối ràng buộc này được tháo gở hay hủy bỏ bởi sự chết bao lâu người ngoại đạo đồng ý sống với người chồng hoặc vợ có đạo.[19] Nhưng nếu người chồng hay vợ ngoại đạo muốn bỏ hay ly dị tín hữu, tín hữu cứ để họ đi: trong trường hợp này, chồng hay vợ có đạo không bị ràng buộc bởi luật hôn nhân.[20] Họ có quyền tái hôn. Đây phải nói là một trường hợp ngoại lệ cụ thể nơi cộng đoàn Côrintô, nhưng thánh Phaolô luôn giữ vững quan điểm của ngài là tín hữu không bao giờ tự mình đề xướng hay quyết định ly dị.
2. Theo Giáo hội
2.1. Các giáo phụ       
Ở những thế kỷ đầu, người Kitô giáo sống trong văn hóa Hy - La. Nơi nền văn hóa này tồn tại hai khuynh hướng, hai quan niệm khác nhau về tính dục và hôn nhân gia đình. Khuynh hướng ngoại giáo đề cao lối sống tìm khoái lạc, phi luật, sống tự do luyến ái. Họ sống thác loạn tính dục, không quan tâm đến giá trị của đời sống hôn nhân hay khiết tịnh. Ngược lại khuynh hướng trên là khuynh hướng lạc giáo, đề cao tinh thần chống tìm kiếm khoái lạc nơi thân xác, coi thường giá trị của đời sống hôn nhân. Trong bối cảnh trên, các giáo phụ đưa giáo lý nói về hôn nhân và bảo vệ hôn nhân.
Thánh Amrôsiô cho dù đề cao bậc đồng trinh và góa bụa, nhưng không hạ giá hôn nhân. Ngài cho rằng hôn không phải là cái gì xấu; nếu như thánh Amrôsiô khuyên các tín hữu đừng bước vào, thì đó không phải là lỗi lầm, nhưng là một gánh nặng, một dây ràng buộc ngăn chúng ta hướng tâm hồn lên tới Chúa.[21]
Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng hôn nhân không phải là chướng ngại vật ngăn cản ơn cứu độ. Thiên Chúa thiết lập hôn nhân để duy trì nhân loại. Nhưng vì con người sống trong tình trạng tội lỗi, nên hôn nhân có mục đích chính là cứu chữa vật dục. Ai có ý chí mạnh có thể giữ mình khiết tịnh, còn ai không thể giữa mình thì lập gia đình.[22]
Thánh Augustinô đã trình bày giáo lý về hôn nhân như sau: hôn nhân không thể khinh miệt vì chính Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc từ khởi nguyên vũ trụ; tiếp đến được Đức Kitô nâng lên vị trí cao sang để làm mẫu biểu trưng cho sự kết hợp giữa Người và Hội thánh. Thánh Augustinô cũng đề cao bậc đồng trinh, nhưng không xem thường hôn nhân. Hôn nhân tốt lành vì có ba điều tốt: sinh sản con cái, trung thành với nhau và dấn thân bất khả phân ly của vợ chồng.[23]
2.2. Công đồng Trentô
Giáo lý của công đồng Trentô được đưa ra nhằm chống lại các quan điểm của phong trào Cải Cách. Điểm chính yếu về giáo lý hôn nhân mà công đồng Trentô đã tuyên bố:
Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích. Hôn nhân là một định chế đã được Thiên Chúa thiết lập và về sau được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích. Giáo hội có quyền trên hôn nhân: Giáo hội có quyền xác định các ngăn trở tiêu hôn; miễn chuẩn với hôn nhân nhưng chưa hoàn hợp; ban sắc lệnh được ly thân khi có lý do chính đáng, nhưng không tháo gỡ dây hôn phối.[24]
Công đồng không chỉ tuyên bố lại giáo lý về hôn nhân như một bí tích mà còn minh định một cách rõ ràng rằng đây là một chân lý đức tin. Tính hợp nhất và bất khả phân ly trong hôn nhân và tính chất thánh hóa của vợ chồng.[25]
2.3. Công đồng Vaticanô II
Công đồng Vaticanô II đã dành trọn một chương trong hiến chế Gaudium et Spes để nói về hôn nhân gia đình. Với tựa đề: “Phải đề cao phẩm giá của hôn nhân và gia đình”, và bao gồm những nội dung: tình trạng hôn nhân và gia đình trong thế giới ngày nay, bản chất thánh thiện và đặc tính hôn nhân, việc sinh sản con cái, tôn trọng sự sống, bổn phận của việc làm cha mẹ, và cuối cùng là bổn phận của mọi người trong việc thăng tiến hôn nhân và gia đình như là nền của xã hội.[26] Hôn nhân gia đình trong Gaudium et Spes qui hướng về ba vấn đề chính: hôn nhân là một ơn gọi nên thánh, tình yêu vợ chồng trong định chế hôn nhân và mối tương quan giữa vợ chồng và sự sinh sản.
Hôn nhân gia đình, một ơn gọi nên thánh. Trong số 48 của hiến chế Gaudium et Spes, đôi bạn được mời gọi thánh hóa bản thân và lẫn nhau, và xuyên qua cuộc sống nên thánh của mình, đôi bạn mở ra một con đường nên thánh cho con cái, và chính con cái cũng góp phần vào việc nên thánh của các cha mẹ. Tất cả các khía cạnh của đời sống hôn nhân và gia đình: tình yêu, phối hợp vợ chồng, sinh sản, giáo dục con cái là nguồn mạch của việc nên thánh.
Tình yêu vợ chồng trong đời sống hôn nhân gia đình. Tình yêu vợ chồng có đặc tính nhân linh cao cả vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác bằng một tình cảm tự do. Tình yêu vợ chồng được Thiên Chúa chữa trị, cải thiện và nâng cao. Tình yêu vợ chồng là một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại với yếu tố thần linh như thế phải thấm nhuần cả đời sống và hướng dẫn đôi vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ trìu mến. Nhờ đó tình yêu vợ chồng vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy.[27]
Tình yêu vợ chồng và sự sinh sản con cái. “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân.”[28] Con cái vừa là ân huệ vừa là sự góp phần hạnh phúc của cha mẹ. Bổn phận truyền sinh và giáo dục con cái là sứ mệnh riêng biệt và cao cả của vợ chồng, điều đó nói lên sự cộng tác của vợ chồng với công trình sáng tạo của Thiên Chúa, họ trở thành những người diễn đạt tình yêu của Ngài. Trong trường hợp vợ chồng không thể có con, thì “hôn nhân vẫn tồn tại như một cuộc sống chung và vẫn giữ được giá trị cùng đặc tính bất khả phân ly của mình.”[29]
Mục đích của hôn nhân giờ đây không còn chỉ là sinh sản con cái, mà còn là tình yêu của vợ chồng, yêu thương, gắn bó, giúp nhau hoàn thiện trong đời sống hôn nhân. Hôn nhân không còn bị xem như một phương cách để cứu chữa vật dục, hành vi quan hệ vợ chồng giờ đây được nhìn nhận như là một hành vi nhân linh cao cả, biểu lộ sự trao hiến hỗ tương của tình yêu hợp nhất, trung thành và bất khả phân ly. 
2.4. Văn kiện Giáo hội về hôn nhân và gia đình
Thông Điệp Humanae Vitae của Đức Phaolô VI, ban hành ngày 25.7.1968, đã nhấn mạnh đến sự liên kết mật thiết giữa tình yêu vợ chồng và việc sinh sản con cái. Trước hết, tình yêu vợ chồng là một tình yêu trọn vẹn tràn đầy nhân tính, có nghĩa là vừa có cảm giác, vừa linh thiêng. Do đó, tình yêu vợ chồng không phải chỉ có xúc động của bản năng và tình cảm, nhưng trước nhất là hoạt động của ý chí tự do. Thứ đến, tình yêu vợ chồng là tình yêu toàn diện, có nghĩa là một thứ thân tình đặc biệt làm cho đôi vợ chồng chia sẻ cho nhau tất cả một cách quảng đại, không dè dặt vô ích và toan tính ích kỷ. Thứ nữa, tình yêu hôn nhân cũng là một tình yêu chung thủy và độc hữu cho đến chết. Cuối cùng, tình yêu vợ chồng là một tình yêu sinh sản: “Vì tự bản chất, hôn nhân và tình yêu vợ chồng nhằm vào việc nhằm vào việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành của hôn nhân.”[30]
Tông huấn Famaliaris Consortio Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ban hành ngày 22 tháng 11 năm 1981, nhấn mạnh sự kiện gia đình cần được hướng dẫn bởi nguyên tắc nội tại của tình yêu: “Cũng như không có tình yêu, gia đình không phải là một cộng đồng ngôi vị, thì cũng thế, không tình yêu, gia đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng ngôi vị.”[31] Như thế, chính tình yêu là nền tảng và xây dựng sự hiệp thông vợ chồng như là sự hiệp thông bất khả phân ly.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy chiếu đến việc tạo dựng con người bằng cách nhắc lại rằng con người được tạo dựng bằng tình yêu. Con người được kêu gọi đến cuộc sống bằng tình yêu và đồng thời con người được mời gọi sống tình yêu trong một hành vi sáng tạo. Do đó, có ơn gọi, khả năng và trách nhiệm tương ứng, đối với tình yêu và sự hiệp thông.[32] Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa qua tình yêu trao ban và đón nhận.
Trong Tông huấn Amoris Laetitia, Đức Phanxicô đề cập đến rất nhiều vấn đề liên quan đến hôn nhân và đời sống gia đình, và chú trọng đặc biệt vào ơn gọi và sứ mệnh tình yêu của hôn nhân và gia đình. Tông huấn nói về những sức mạnh và những ân huệ của gia đình, và những thách thức hiện thời các gia đình trên khắp thế giới đang phải đối mặt. Tông huấn khuyến khích các đôi vợ chồng, các gia đình, và các tác viên mục vụ hãy đồng hành và chăm lo cho các gia đình và những ai đang cần được Chúa thương xót và chữa lành. Điều này đòi hỏi ta phải biết suy nghĩ sâu xa về tình yêu và những gì tình yêu bao hàm trong thực tại hằng ngày của hôn nhân và đời sống gia đình.
II. CÁC VẤN ĐỀ CỦA HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1. Hôn nhân theo kiểu sống thử, sống chung          
Sống thử là hai người nam nữ tự do sống chung với nhau như vợ chồng một thời gian, không có hôn thú và bí tích. Nếu hợp thì tiếp, không hợp thì chia tay. Nhưng điều quan trọng là họ không nghĩ mình sống thử. Họ sống thật nhưng lại lỗi luật luật Chúa và luật Giáo hội.
Mục tiêu ban đầu của việc sống thử xem ra rất “hợp lý”: đó là việc tìm kiếm sự hòa hợp giữa hai nhân vị để xây dựng hạnh phúc, với mơ ước có được một tình yêu thực sự bền lâu. Nhưng trong cách thực hiện lối sống này, ta có thể thấy phát lộ ngay từ đầu một sai lầm khá nghiêm trọng trong cách suy nghĩ: làm sao có thể xây dựng một giá trị bền lâu nếu ngay từ đầu người ta đã nghĩ ngay là nó sẽ không tồn tại lâu dài hoặc sẽ đổ vỡ nhanh chóng.
Việc sống thử, sống chung không hôn nhân là đi ngược lại với các giá trị của truyền thống thông thường của đời sống hôn nhân. Tự bản chất của điều đó là một sự lệch lạc, nó sẽ để lại những hậu quả tai hại cho tương lai, đặc biệt là phía nữ giới. Sống thử đi ngược lại với đời sống luân lý Công giáo. Thông điệp Familiaris Consortio khẳng định sống thử là tình trạng tái qui tắc của hôn nhân Công giáo:
Tình trạng trái qui tắc đầu tiên thường được gọi là “hôn nhân thử” mà ngày nay nhiều người đang muốn biện minh bằng cách gán cho nó một vài giá trị nào đó. Thật là một điều không thể nào chấp nhận được. Chỉ nguyên lý trí con người cũng đủ cho thấy điều đó, khi cho thấy rằng chẳng có mấy lý do khiến ta có thể nói đến việc “thử nghiệm” nhân vị, vì phẩm giá của nhân vị đòi hỏi phải luôn luôn được coi là đích điểm của tình yêu trao hiến không trừ một giới hạn nào, dù là giới hạn thời gian hay bất cứ giới hạn nào.[33]
Nhiều người nói rằng nguyên nhân của trào lưu sống thử là việc hiện đại hóa xã hội và xu hướng tiêu thụ. Ngày nay, xã hội tiêu thụ thời hiện đại cho phép người ta sử dụng và bỏ đi với các thứ đồ vật và hàng tiêu dùng các loại. Xu hướng này đang lan vào ngay cả trong sự lựa chọn tình yêu và gia đình. Nhiều người đang quên đi một điều quan trọng: dù cuộc sống có hiện đại đến mấy, người ta cũng không cho phép chối bỏ con người và những quyền lợi căn bản của họ. Con người, với phẩm giá của mình, luôn cần được tôn trọng và bảo vệ. Như vậy, liệu có đạo lý hay không nếu bạn xem người mình yêu như một “món hàng dùng thử”, nếu thích hợp thì chọn, không thích hợp thì bỏ qua và tiếp tục chọn lực một món mới?[34]
Để sống chung với nhau suốt cuộc đời nhưng trong tư tưởng lại không muốn sống hết mình và sống có trách nhiệm với người ấy thông qua một lời cam kết nghiêm túc và chân thành. Sự thiếu chân thành đã bắt đầu từ đây, và hôn nhân được xây trên nền tảng của sự giả dối nó có thể bền vững được không? 
Điều đáng nói là chuyện tình yêu của một người không là chuyện cá nhân nhỏ bé vì nó chạm tới ít nhất là hai người và liên quan tới cả một thế hệ nếu hai người “lỡ” có con cái với nhau. Gia đình nhỏ bé mà mỗi người chúng ta xây dựng là viên đá cần thiết để kiến tạo tòa nhà xã hội to lớn nên không sẽ là chuyện nhỏ và chuyện riêng tư cách hoàn toàn.
Dựa trên giáo lý và huấn quyền của Giáo hội, chúng ta thấy tình trạng sống thử, sống chung nơi những người Công giáo là đi ngược lại với những điều răn của Chúa và của Giáo hội:
Kiểu nói “Tự do sống chung” là dối trá, vì có nghĩa gì một sự sống chung không hôn nhân, trong đó những nhân vị không bị ràng buộc với nhau và như vậy chứng tỏ rằng họ không tin tưởng vào người kia, vào chính mình hoặc vào tương lai?
Kiểu nói này chỉ nhiều trường hợp khác nhau: ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết lâu dài. Tất cả những trường hợp này đều xúc phạm đến phẩm giá của hôn nhân; chúng phá hủy ý niệm về gia đình; chúng làm suy giảm ý nghĩa của lòng chung thủy. Chúng nghịch với luật luân lý: hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, hành vi này luôn luôn là một tội trọng và người vi phạm bị loại ra khỏi sự hiệp thông bí tích.[35]
Sống thử trước hôn nhân là đi ngược lại với mục đích của hôn nhân Kitô giáo. Nhờ bí tích Hôn phối hai người nam và nữ trở thành vợ chồng. Họ trao hiến trọn vẹn, bao gồm thể xác và tinh thần. Hôn nhân là một trong những điều thiện hảo quí giá nhất của nhân loại, có phẩm giá thiêng liêng thánh thiện, vì đã được chính Thiên Chúa thiết lập, và được Chúa Kitô thánh hiến qua bí tích hôn phối. Vì vậy, không thể có hôn nhân thử “thử nghiệm” được. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã khẳng định lập trường này:
Ngày nay nhiều người đòi hỏi một thứ “quyền thử nghiệm” khi có ý định kết hôn với nhau. Những người dấn thân trong các quan hệ tính dục tiền hôn dù họ có quyết tâm mạnh mẽ thế nào đi nữa, “những giao hợp tính dục ấy vẫn không thể bảo đảm quan hệ giữa họ với nhau trong sự chân thật và thủy chung giữa một người nam và một người nữ, và nhất là không thể bảo đảm giữ cho quan hệ này khỏi những ý muốn hay thay đổi và thất thường”. Về phương diện luân lý, sự giao hợp chỉ hợp pháp khi đã chính thức kết hôn. Tình yêu không chấp nhận thử nghiệm, nhưng đòi hỏi hiến thân cho nhau một cách trọn vẹn và dứt khoát.[36]
Quan điểm của Giáo hội Công giáo là hôn phối không phải chỉ là chuyện riêng tư thuần túy giữa hai người nam nữ, nhưng còn liên hệ tới tính hiệp thông trong toàn thể cộng đoàn Giáo hội. Thật vậy, từ đôi hôn phối Công giáo này, sẽ đem đến một gia đình Kitô với tất cả sự phong phú của cuộc sống, khả năng giáo dục tri thức và đức tin, trở nên một tế bào sống động của Giáo hội. Gia đình là tế bào đầu tiên của Giáo hội và được Công đồng Vaticanô II gọi là “Giáo hội tại gia.”[37] Khi cử hành hôn phối theo nghi thức đạo, đôi vợ chồng Công giáo bày tỏ quyết tâm dấn thân sống đời hôn nhân theo giới luật của Chúa và những mong đợi của Giáo hội.
2. Vấn đề ly dị
2.1. Hiện trạng và nguyên nhân của việc ly dị
Những năm gần đây, chúng ta thấy ngày càng có nhiều tín hữu ra tòa đời ly dị và sau đó tiến hành một hôn nhân khác. Và Tông huấn Amoris Laetitia cũng cho thấy “Ly dị là một điều bất hạnh, và con số các vụ ly dị gia tăng là điều rất đáng lo âu.”[38]
Theo nhận định của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong bài diễn văn tại Tòa Hòa Giải Tối cao tại Rôma ngày 21.1.1999, thì ngày nay người ta có một “tâm thức ủng hộ ly dị”. Thật vậy, văn hóa ngày nay, hình như người ta ủng hộ cho việc ly thân giữa vợ chồng hoặc ly dị như một giải pháp cho những vấn đề của đời sống lứa đôi. Các đôi vợ chồng đi đến việc ly thân một cách rất dễ dàng trong những năm đầu sau ngày cưới, trong khi việc ly dị thì có thể xảy ra trong bất cứ giai đoạn nào của đời sống hôn nhân. Hậu quả của những dữ kiện này thường rất tác hại trên trẻ em, nhất là trong việc giáo dục và hội nhập xã hội của chúng.
Các nguyên nhân của việc ly dị gia tăng.[39] Có thể nêu lên một số nguyên nhân sau đây. Thứ nhất, do động cơ hôn nhân không đúng đắn, không lành mạnh: những trường hợp kết hôn vì bị ép uổng, lấy nhau vì tiền bạc, địa vị, tài sản của người kia chứ không phải vì tình yêu đích thực. Cũng phải đề cập đến cả những trường hợp bị lừa dối vì chưa tìm hiểu kỹ về nhau. Những cuộc hôn nhân không vì yêu thương, không tự nguyện lấy nhau mà bởi những lý do không đúng đắn lành mạnh, thiếu sự thành thật, thường sẽ không bền vững, sau này đễ dẫn tới ly hôn.
Thứ hai, lập gia đình quá sớm, khi còn chưa phát triển đầy đủ về thể lực và trí tuệ, chưa ổn định về mặt tâm lý, nên còn nhiều dao động, biến đổi, khiến tình yêu không bền vững. Ở độ tuổi quá trẻ người ta chưa có ý thức trách nhiệm cao, nên dễ chán nhau, và sẵn sàng rời bỏ nhau khi nảy sinh tình yêu với một đối tượng khác.
Thứ ba, do sự thoái hóa nhân cách: nguyên nhân chính thứ ba có thể đưa đến việc ly hôn, là người trong cuộc có thể bị một sự thoái hóa của nhân cách, do sự thiếu căn bản đạo đức, mà không còn giữ được nếp sống tốt đẹp trước, hoặc do sự chán ngán người hôn phối khi đã chung đụng với nhau một thời gian, không còn hợp nhau, đối xử với nhau một cách tàn tệ; hay do ảnh hưởng của xã hội, của bạn bè xấu, đi theo con đường trụy lạc bỏ bê gia đình, lâm vào các tệ nạn như cờ bạc, rượu chè nghiện ngập, gây đau khổ, bất mãn cho người bạn đời, đưa đến xa rời nhau.
Thứ tư, do sự thiếu hòa hợp vợ chồng: giữa hai người, từ quan niệm sống, lối sống, trình độ kiến thức trình độ xã hội quá chênh lệch. Sự khác biệt quá xa giữa vợ chồng về những lĩnh vực trên, cũng thường dẫn đến đỗ vỡ vì không chịu được nhau.
Thứ năm, vì lý do kinh tế quá kém: vợ chồng phải cực khổ tần tảo mà vẫn không đủ cơm no áo ấm, hoặc do sự biếng nhác, hoặc do không biết chi tiêu phù hợp thiếu trước hụt sau mà vợ chồng lìa bỏ nhau. Nhưng cũng cần lưu ý rằng: không hẳn sự giàu sang sẽ mang lại hạnh phúc, mà có khi quá dư giả, nhàn rỗi, lại sinh nhiều thói hư tật xấu, đưa gia đình đến đổ vỡ.
Thứ sáu, do tác động của môi trường xã hội: một trong hai người bị lôi cuốn vào lối sống xô bồ, tự do buông thả, vào những cách sống không phù hợp với gia đình, thiếu lành mạnh, thiếu đạo đức. Nhất là những trường hợp phải sống xa vợ, xa chồng, do công việc làm ăn, lại còn bị bạn bè xấu cám dỗ, nên đưa đến sự cách mặt xa lòng, chán nản gia đình, không chịu xây dựng, và sống theo sự vị kỷ, từ đó khiến vợ chồng không còn yêu thương, chấp nhận nhau.
2.2. Hậu quả của ly dị
Ly dị một thảm trạng, một bất hạnh của hôn nhân, nó dẫn đến rất nhiều hậu quả cho đương sự, cho gia đình cũng như con cái và cho cả xã hội.
Hậu quả đối với người trong cuộc. Chính đương sự những người trong cuộc họ phải chịu những hậu quả trước tiên vì chính họ gây nên. Sau đây là một số hậu quả mà người ly dị phải gánh chịu:
Xét về mặt tâm lý, tình cảm xã hội.[40] Trong tình trạng ở nước ta, và với bản thân người Việt Nam, với sự ảnh hưởng sâu xa của luân lý sẵn có, dù sao hậu quả của việc ly hôn cũng đem lại nhiều ảnh hưởng không tốt cho người trong cuộc. Từ việc giao tiếp đến công việc làm ăn, họ có thể gặp trở ngại do sự đánh giá khắt khe của nhiều người. Từ đó họ rơi vào nỗi chán chường lẫn mặc cảm tự ti trong cuộc sống. Từ tình trạng như thế, người ta dễ đi vào con đường bê tha, nghiện ngập, xao lãng hoặc xem thường mọi bổn phận, mọi trách nhiệm của mình.[41]
Hậu quả này cũng ảnh hướng đối với con cái. Mỗi khi vợ chồng ly dị, thì không chỉ họ là người đau khổ mà còn là một thảm họa đối với con cái. Bởi cha mẹ như là trụ cột vững chắc về tinh thần cũng như vật chất cho cuộc đời con cái. Thế nhưng mỗi khi trụ cột đó bị gãy đôi thì những gì tựa vào đó cũng bị đỗ vỡ tan tành. Hậu quả mà con cái phải chịu khi cha mẹ ly dị đã được tông huấn Amoris Laetitia đề cập đến: Con cái bao giờ cũng là các nạn nhân vô tội của các cuộc ly dị. Vì thế, lợi ích của con cái phải là quan tâm hàng đầu. Các bậc cha mẹ ly thân, không được bắt con cái làm con tin! Chúng phải lớn lên và biết rằng dù không sống chung, nhưng cha mẹ chúng luôn nói tốt về nhau.[42]
Ly dị đã để lại những hậu quả rất lớn trên cuộc đời con cái, chúng không được may mắn như những đứa trẻ khác là sống trong vòng tay yêu thương, chăm sóc nâng đỡ của cha mẹ mà đáng lẽ ra chúng phải được hưởng. Những thắc mắc gợi lên trong đầu chúng là: tại sao cha mẹ lại bỏ nhau? Tại sao cuộc đời tôi lại đau khổ và kém may mắn như vậy? Những câu hỏi như vậy cứ ám ảnh mãi trong tiềm thức tuổi thơ trong suốt cuộc đời khiến chúng phải trăn trở.[43]
Hậu quả của ly dị đối với xã hội: Tông huấn Familiaris Consortio đã khẳng định: “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình”.[44] Xã hội muốn phát triển lành mạnh thì các gia đình trong xã hội phải bền vững. Bởi vì gia đình là nền móng xây dựng lên xã hội. Tông huấn cũng đề cập đến mối tương tương quan chặt chẽ giữa gia đình và xã hội:
Bởi vì “Đấng Tạo hóa đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người”, nên gia đình trở thành “tế bào đầu tiên và sống động của xã hội”. Gia đình có những liên hệ chặt chẽ và sống động xã hội vì nó làm thành nền tảng cho xã hội và không ngừng tiếp sức cho xã hội bằng việc phục vụ sự sống: chính giữa lòng gia đình đã sinh ra các công dân, và chính trong gia đình mà các công dân ấy lần đầu tiên thực tập các nhân đức xã hội, là linh hồn cho sinh hoạt và sự phát triển xã hội. Như thế, vì bản chất và ơn gọi của nó, thay vì đóng khung trên chính mình, gia đình rộng mở đến những gia đình khác và đến xã hội, và chu toàn vai trò xã hội của mình.[45]
Gia đình giàu có, bình yên, hạnh phúc thì xã hội mới trật tự an bình. Bởi gia đình là nơi các giá trị luân lý được dạy dỗ ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời, cũng như gia sản thiêng liêng của cộng đồng tôn giáo và gia sản văn hóa được lưu truyền. Vậy trong gia đình người ta biết học trách nhiệm xã hội và tính liên đới.[46]
Gia đình là trường học đầu tiên để giáo dục những đứa trẻ thành những đứa con có nhân cách, có nhân bản. Gia đình là nền tảng cho xã hội. Thế nhưng mỗi khi nền tảng không vững chắc, mỗi thành viên không còn gắn kết với nhau, thiếu chất hồ tình yêu thì sẽ sụp đổ. Gây ảnh hưởng rất lớn cho xã hội.
2.3. Lập trường của Giáo hội về đề ly dị  
Nhiều đôi tân hôn trong ngày cưới đã yêu nhau và hạnh phúc đến độ mọi người nhìn vào thấy họ thật xứng đôi vừa lứa. Nhưng vài năm sau gặp lại thì biết họ đã ly dị rồi. Làm sao hai người đã yêu nhau đến thế và đã thề trước nhan thánh Chúa là sẽ yêu thương, chung thủy với nhau trọn đời lại có thể đường ai nấy đi trong vòng mới chỉ hai hay ba năm? Thực ra, ly dị là vấn đề của mọi thời đại và mọi nơi. Trong xã hội chúng ta đang sống, ly dị trở nên phổ biến hơn. Nhiều câu hỏi được đặt ra: có được phép ly dị vì bất kỳ lý do nào không? Nếu được, hoàn cảnh nào được phép ly dị?
Giáo hội luôn mạnh mẽ chống lại sự phân ly trong hôn nhân, chống lại việc ly dị của vợ chồng. Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2384 trình bày:
Ly dị là một xúc phạm nghiêm trọng đối với luật tự nhiên. Ly dị cố ý phá vỡ khế ước đã được đôi phối ngẫu tự do ưng thuận, để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn thương Giao ước cứu độ mà bí tích Hôn phối là dấu chỉ. Sự tái hôn, mặc dầu được luật dân sự công nhận, càng làm cho tình trạng đổ vỡ thêm nghiêm trọng: người tái hôn, sau khi ly dị, sống trong tình trạng ngoại tình công khai và thường xuyên: Người nam, sau khi bỏ vợ, không được lấy người khác. Người nữ bị chồng bỏ, cũng không được làm vợ người khác.
Ở số 2385 sách Giáo lý Hội thánh Công giáo còn trình bày thêm tính chất nghiêm trọng của ly dị:
Ly dị cũng mang tính vô luân do sự xáo trộn nó đưa vào tế bào gia đình và vào xã hội. Sự xáo trộn này kéo theo những tổn hại nghiêm trọng: cho người phối ngẫu bị ruồng bỏ; cho con cái, bị tổn thương sâu xa bởi sự phân ly của cha mẹ, và thường bị dằng co giữa cha và mẹ; vì hậu quả lây lan của nó, ly dị thật sự là một tai ương cho xã hội.
Giáo hội thông cảm, chấp nhận cho ly dị tòa đời khi có những lý do chính đáng: “Nếu việc ly dị dân sự vẫn còn là phương cách duy nhất để bảo đảm một số quyền lợi hợp pháp, như việc chăm sóc con cái hoặc bảo vệ gia sản, thì có thể chịu đựng mà không lỗi phạm về luân lý.”[47] Có những hoàn cảnh mà Giáo Hội đứng về phía người bị coi là nạn nhân của việc ly dị, khi bị đối xử bất công:
Có thể xảy ra là một người trong đôi phối ngẫu là nạn nhân vô tội của việc ly dị do tòa án dân sự công bố; lúc đó người này không vi phạm mệnh lệnh luân lý. Có sự khác biệt đáng lưu ý giữa người phối ngẫu thành thật cố gắng trung thành với bí tích Hôn Phối và bị ruồng bỏ cách bất công, với người phối ngẫu, do trọng tội về phía mình, phá hủy hôn nhân đã thành sự theo Giáo Luật.[48] 
Về vấn đề ly thân, Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy: “Việc ly thân (separatio) của đôi phối ngẫu, nhưng vẫn duy trì dây liên kết hôn nhân, có thể là hợp pháp trong một số trường hợp đã được Giáo Luật dự liệu.”[49]
Giáo lý HTCG trình bày thêm về vấn đề ly thân:
Tuy nhiên, có những hoàn cảnh thực tế đôi phối ngẫu không thể tiếp tục sống chung được, vì rất nhiều lý do khác nhau. Trong những trường hợp này, Hội Thánh chấp nhận sự ly thân và chấm dứt việc sống chung của đôi phối ngẫu. Họ vẫn là chồng, là vợ của nhau trước mặt Thiên Chúa; họ không được tự do để ký kết một hôn ước mới. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, giải pháp tốt nhất, nếu có thể, là hòa giải với nhau. Cộng đoàn Kitô hữu được mời gọi trợ giúp những người đó sống đời Kitô hữu trong hoàn cảnh của họ, luôn chung thuỷ với dây hôn phối vẫn bất khả phân ly của họ.[50]
Công đồng Vaticanô II đã tuyên bố hôn nhân là bất khả phân ly, dù một số ý kiến cho phép ly dị trong một số trường hợp khó khăn:
Bởi một hành vi nhân linh, trong đó, hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Những lợi ích của hôn nhân đòi hỏi vợ chồng phải có sự hiệp nhất với nhau mà không có gì có thể phá vỡ được.[51]
Công đồng Vaticanô II đã liệt kê ba lý do không cho phép ly dị: ích lợi của vợ chồng, của con cái và xã hội.
Thứ nhất, ly dị là đi ngược lại lợi ích của vợ chồng. Việc ly dị đánh mất ý nghĩa và mục đích của sự tự hiến của hai người cho nhau và lòng trung tín trong tình yêu. Mục đích của việc bảo vệ và chăm sóc lẫn nhau là một điều tối cần thiết. Điều này chỉ có thể đảm bảo trong bậc sống hôn nhân khi quan hệ vợ chồng là một quan hệ vĩnh viễn. Tình yêu chân thật trong đời sống hôn nhân không thể giới hạn trong một khoảng khắc nào đó, nghĩa là hôm nay thì tôi yêu em, nhưng ngày mai thì không yêu nữa. Việc khẳng định mối dây ràng buộc bất khả phân ly trong đời sống hôn nhân tạo nên uy lực rất mạnh nhằm bảo vệ tình yêu vợ chồng và lòng trung thành. Nó đem lại một động lực giúp đôi vợ chồng chấp nhận chịu đựng những khuyết điểm của nhau trong kiên nhẫn và bảo tồn sự hiệp nhất, hoà thuận với nhau. Nếu định chế hôn nhân và gia đình không có một nền tảng vững chắc, thì xã hội sẽ trở nên nghèo nàn, và điều đó đã làm mất đi cái nét yêu kiều của bộ mặt con người. Con người sẽ trở nên cô lập, tính toán so đo với nhau và những mối liên hệ giữa con người với nhau chẳng qua là để vụ lợi. Nó còn làm cho sự đoàn kết mỗi ngày một rạn nứt lớn hơn.[52]
Thứ hai, vì lợi ích của con cái. Càng thương nhau, càng chung thủy với nhau, đôi bạn càng chung sức trong trách nhiệm sinh dưỡng và giáo dục con cái. Kinh nghiệm thực tế minh xác điều đó. Một khi mối dây liên hệ ràng buộc trong đời sống hôn nhân bị lỏng lẻo, con cái bị tước đoạt đi tình cảm của bố hoặc của mẹ, hay cả hai; và điều ấy hiển nhiên ảnh hưởng đến sự tự tin của chúng, việc học hành và gây sự bất ổn trong tâm hồn. Lợi ích của con cái ít khi được sử dụng để coi đó như một sự ép buộc cha mẹ không được phép ly dị. Nhưng ngược lại, nó dùng để đấu tranh cho sự bền vững của mái ấm gia đình.[53]
Thứ ba vì lợi ích của xã hội. Chỉ có phương cách ấy thì việc giáo dục lành mạnh cho các thế hệ trẻ có thể được bảo đảm; và sự tương thân, tương trợ đoàn kết lẫn nhau trong cùng một cộng đoàn mới được bảo vệ và nâng đỡ. Chính quyền không những chỉ có trách nhiệm và bổn phận giải thể những cuộc hôn nhân bị trục trặc, nhưng họ còn phải có trách nhiệm cung cấp những dịch vụ tư vấn về phương diện gia đình hầu giúp đỡ việc hoà giải và tái lập những hôn nhân đã bị đổ vỡ.[54]
Những điều trên đây được đúc kết trong giáo huấn của Công đồng Vatican II:
Bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ “không còn là hai nhưng là một xương thịt”[55] phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly.[56]

3. Bạo hành trong gia đình      
Bạo hành gia đình có thể được định nghĩa là những hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành viên trong gia đình, thường xảy ra giữa vợ chồng và trong bất cứ mối tương quan tình cảm nào nhằm nắm được quyền hành hay kiềm chế việc xử thế của một người gần gũi với mình. Bạo hành trong gia đình là một mô hình do lâu ngày thành thói quen dùng để khống chế người khác qua việc gây sợ hãi, đe dọa tâm thần hoặc dùng bạo lực. Bất cứ ai cũng có thể là nạn nhân của bạo hành gia đình.
3.1. Các nguyên nhân của nạn bạo hành
Có nhiều lý do dẫn đến các hành vi bạo hành, từ việc gia đình không có một chức năng bình thường cho đến sự thiếu cảm thông; từ sự dồn nén tâm lý của người chồng đến sự khiêu khích của người phối ngẫu, hoặc vì các chất kích thích như rượu, ma túy, hoặc vì thiếu một cuộc sống tâm linh cho đến tình trạng kinh tế khó khăn.
Bạo hành gia đình thường có tỷ lệ cao ở các gia đình có những hoàn cảnh đặc thù như trình độ văn hóa thấp, bệnh tật, thất nghiệp hoặc nghiện ngập. Tuy nhiên, điều nầy không có nghĩa là những gia đình giàu có hay trí thức sẽ không có bạo hành. Theo ủy ban về các vấn đề xã hội, nguyên nhân sâu xa của bạo hành gia đình bắt nguồn từ tư tưởng bất bình đẳng giới từng tồn tại trong văn hóa Việt Nam. Từ lâu nay, chế độ phụ hệ, tư tưởng “nam trọng nữ khinh” kéo theo sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
3.2. Hậu quả của nạn bạo hành
Hậu quả của nạn bạo hành gia đình ảnh hưởng nhiều khía cạnh. Hậu quả đầu tiên mà bạo hành để lại đó là tình trạng sức khỏe của phụ nữ. Người phụ nữ bị đánh đập, hành hạ trên thân xác nên các dấu tích của hành động bạo hành để lại rất rõ nét. Do bị hành hạ thường xuyên nên tình trạng sức khoẻ của phụ nữ ngày càng yếu đi. Bên cạnh những vết thương lòng ngay lúc bị hành hạ là những ấm ức, buồn tủi lâu dài làm cho người phụ nữ trở nên ít nói, lâu ngày sẽ trở thành bệnh. Ngoài sự ảnh hưởng về sức khoẻ, thì những lúc vợ chồng ẩu đả cũng là nguyên nhân đập phá đồ đạc trong nhà…. Từ đó tình cảm vợ chồng phai nhạt, họ sẵn sàng đi đến ly hôn để thoát khỏi cảnh đau khổ.
3.3. Giáo hội nói về phẩm giá và quyền bình đẳng của con người     
Con người được tạo dựng “theo hình ảnh và giống như” Đấng Tạo Hóa, nhưng do nguyên tội hình ảnh này đã bị biến dạng. Nay nhờ ơn cứu độ của Đức Kitô, hình ảnh này chẳng những được phục hồi vẻ đẹp nguyên tuyền, mà còn rực rỡ hơn xưa, vì được thông phần thần tính của Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người. “Hình ảnh này rực sáng trong sự hiệp thông nhân vị, giống sự hiệp nhất Ba Ngôi Thiên Chúa”.[57] Trong gia đình, nếu các thành viên ý thức về sự bình đẳng phẩm giá nơi mọi người, biết tôn trọng nhân vị của nhau, thì ắt hẳn không còn nạn bạo lực, thay vào đó là bầu không khí yêu thương nhau, coi người khác như “cái tôi thứ hai”, quan tâm đến sự sống của nhau, giúp nhau sống xứng đáng nhân phẩm.[58]
Đối với gia đình Công giáo, nếu có nạn bạo hành vượt quá sức chịu đựng của người phụ nữ, Giáo hội cho phép ly thân chứ không được ly dị. Hiển nhiên việc ly thân là phương thức cuối cùng sau khi đã dùng mọi nỗ lực để giảm thiểu nạn bạo lực mà không thành.[59]
4. Sự sống
4.1. Vấn đề phá thai
Giáo hội luôn bênh vực sự sống và những định luật tự nhiên do Thiên Chúa thiết định. Vì thế Giáo hội cấm mọi hình thức phá hủy sự sống. Cụ thể, thông điệp Humanae Vitae ghi rõ: “Không thể nào chấp nhận việc điều hoà sinh sản bằng cách trực tiếp huỷ diệt bào thai đã thành hình, đó là mầm sống đang diễn tiến, nhất là cố ý phá thai, dù với lý do y tế cũng không được.”[60]
Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai. Ngay khi bắt đầu hiện hữu, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội.[61] Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội thánh đã xác định phá thai là một tội ác. Giáo huấn ấy bất biến, không hề thay đổi. Trực tiếp phá thai dù là mục đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm trọng luật luân lý.[62] Cộng tác vào chính việc phá thai là một lỗi nặng. Theo Giáo luật, Hội thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ phạm tội này.[63] Làm như thế Hội thánh không có ý giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác, sự thiệt hại không thể sửa chữa đã gây ra cho đứa trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em và cho toàn xã hội.  
4.2. Truyền sinh nhân tạo
Giáo hội không cho phép sử dụng những phương pháp thụ thai nhân tạo. Huấn thị Hồng ân Sự sống ghi rõ:
Về mặt luân lý, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo vẫn không thể được chấp nhận, vì tách rời hành vi tính dục với việc truyền sinh. Sinh sản con cái không còn là một hành vi của hai con người hiến thân cho nhau, nhưng sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào tay các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và vận mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược với phẩm giá và sự bình đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái. Để cho việc truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng mối dây liên hệ giữa những ý nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống nhất của bản tính con người.[64]
4.3. Lập trường của Giáo hội
Công đồng Vaticanô II trong hiến chế Gaudium et Spes đã nói về sự sống con người:
Tất cả những gì đi ngược với chính sự sống, như giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm dịu, hoặc tự tử trực tiếp; tất cả những gì xâm phạm sự toàn vẹn của con người, như cắt bỏ một phần thân xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý; tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ con…Và trong khi làm thối nát nền văn minh nhân loại, thì tất cả những điều trên lại càng bôi nhọ chính những kẻ chủ động hơn là bôi nhọ những kẻ phải chịu sự nhục mạ, đồng thời cũng xúc phạm nặng nề đến danh dự của Ðấng Tạo Hóa.[65]
Sách Giáo lý Công giáo đã viết:
Sự sống con người là linh thánh, vì từ nguồn gốc, nó là hành động sáng tạo của Thiên Chúa, và mãi ở trong liên lạc đặc biệt với Thiên Chúa là cùng đích nó. Chỉ mình Thiên Chúa là chủ sự sống, từ đầu đến cuối, không ai, bất cứ hoàn cảnh nào, có thể đòi cho mình quyền trực tiếp giết người vô tội.[66]
Huấn thị của Bộ Đức tin: “Hữu thể con người phải được tôn trọng và đối xử như ngôi vị người từ lúc thụ thai tới lúc chết.”[67] Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư mục vụ về Môi trường Giáo dục Gia đình Công giáo đã nhắn nhủ cộng đồng dân Chúa:
Con người dù đẹp hay xấu, dù thông minh hay tối dạ, đều là người đã được Thiên Chúa dựng nên và được Ngài yêu thương. Sự sống của người ấy nằm trong tay Thiên Chúa và Con Thiên Chúa đã chết trên thập giá cho người ấy. Do đó, những can thiệp của khoa học nhằm lựa chọn giới tính, những hành vi giết người như phá thai, làm chết êm dịu… đều đi ngược với phẩm giá con người và chống lại Thiên Chúa, vì chúng biến con người thành một thứ hàng hóa hay một sản phẩm thay vì là một sinh linh cao quý mang hình ảnh của Đấng Tối Cao.[68]
III. VÀI ĐỀ XUẤT GIÁO DỤC ĐỨC TIN & HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ
     1. Giáo dục về đức tin   
1.1. Cuộc sống của con người
                   như một ơn gọi đến với tình yêu
Thiên Chúa là Tình yêu và nơi chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người.[69]
Đời sống con người chỉ có ý nghĩa khi hướng về tình yêu và tồn tại trong tình yêu. Nền giáo dục chân chính và việc đào tạo con người, nhằm đạt tới cùng đích của nó. Cùng đích của con người chính là sự viên mãn trong tình yêu. Sự viên mãn này chính là sự kết hợp với nhau nên một như hình ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa là một, và chỉ có thực hiện được qua hành vi tự hiến chân thành.[70]
1.2. Giáo dục tính dục và đức khiết tịnh
Tính dục là cấu trúc định dạng hiện hữu của con người. Nó vừa có chiều kích bản năng, vừa có chiều kích nhân bản: làm phong phú toàn thể con người, mở ra với tha nhân trong tương quan tình yêu hiệp thông và hiến dâng. Từ ngàn xưa, tính dục được xem là một thực tại thánh thiêng, được thần thánh hóa trong tôn giáo; được giải thích bằng những huyền thoại thần thiêng… Trong bối cảnh văn hóa hiện này, ý nghĩa chân thận của tính dục đang bị méo mó, bị tách rời khỏi mối liên hệ thiết yếu thâm sâu với nhân vị, Hội thánh ý thức việc giáo dục tính dục là một sứ mạng cấp bách, nhằm đem lại cho con người cái đúng đắn về tính dục, vùn trồng đức khiết tịnh. Trong đức khiết tịnh, sự trao hiến cho nhau của đôi vợ chồng trở nên trọn vẹn, và con cái được sinh ra trong khung cảnh tình yêu đích thực[71]. Cũng trong đức khiết tịnh, tình bằng hữu được nảy nở nơi người sống đời độc thân thánh hiến, họ trở thành chứng nhân của Thiên Chúa tình yêu đang hiện diện giữa mọi người.[72]
Việc giáo dục tính dục – là quyền lợi và bổn phận căn bản của cha mẹ – phải luôn luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn chu đáo của cha mẹ, tại gia đình cũng như ở các trung tâm giáo dục được cha mẹ chọn lựa và kiểm soát … Trong bối cảnh ấy, không thể nào chối bỏ việc giáo dục đức khiết tịnh, là nhân đức làm phát triển sự trưởng thành đích thực của ngôi vị, làm cho ngôi vị có khả năng kính trọng và nâng cao ý nghĩa hôn nhân của thân xác. Hơn nữa, cha mẹ Ki-tô hữu cần dành một sự chú ý và chăm sóc đặc biệt để nhận ra những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn mời gọi họ giáo dục sự trinh khiết, như một hình thức tuyệt vời của sự tự hiến làm nên chính ý nghĩa cho tính dục con người.[73]
1.3. Giáo dục trong gia đình Kitô hữu
Theo giáo huấn của Hội thánh, thì cha mẹ phải là “những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu” của con cái. Còn các Giáo Lý viên chỉ là những người phụ giúp cha mẹ trong sứ mệnh giáo dục này. Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo của Công đồng Vaticanô II viết:
Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được.[74]
Theo Tông Huấn Familiaris Consortio thì quyền lợi và nhiệm vụ giáo dục của cha mẹ là điều thiết yếu, vì việc giáo dục liên quan đến việc truyền sinh; vai trò này là vai trò căn bản và chính yếu so với vai trò của những người khác, bởi vì sự liên hệ độc nhất và yêu thương giữa cha mẹ và con cái; không ai có thể thay thế được và chuyển nhượng được, như thế không ai có thể hoàn toàn uỷ quyền cho người khác hay để cho người khác cướp đoạt quyền này.[75]
 Như vậy, cha mẹ có vai trò rất quan trọng của trong việc giáo dục con cái. Đôi khi vai trò này xem ra vượt khả năng của một số phụ huynh. Dù chúng ta có khả năng hay không, thì chính chúng ta là những người chịu trách nhiệm về con cái của mình. Đồng thời, không ai có thể hiểu biết và yêu thương con cái chúng ta hơn chúng ta. Cho nên, dù muốn dù không, chúng ta cũng phải lãnh trách nhiệm làm những nhà giáo đầu tiên và chính yếu của con cái chúng ta. Dù cha mẹ có là những nhà giáo bất toàn, việc giáo dục của cha mẹ vẫn tốt hơn là khoán trắng cho người khác giáo dục con cái thay cho chúng ta.    
2. Hoạt động mục vụ     
2.1. Mục vụ chuẩn bị đời sống hôn nhân
Việc Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân gia đình rất quan trọng, bởi vì những đổi thay đến từ xã hội hiện đại đang tìm cách phá đổ gia đình là định chế căn bản của xã hội và Giáo hội. Vì thế, cần có sự chuẩn bị tương xứng làm sao để các bạn trẻ có thể lãnh nhận những trách nhiệm trong tương lai, giữa những cuộc khủng hoảng về các giá trị và về những tiêu chuẩn luân lý khiến họ không đủ khả năng đương đầu với những thách đố mới.[76]
Giáo hội cần phải cổ võ những chương trình hôn nhân phong phú và hiện hữu, để hết sức loại trừ những khó khăn mà trong đó biết bao gia đình đang phải đối phó, và hơn nữa, để tích cực dẫn đưa các cuộc hôn nhân đến chỗ thành công và trưởng thành trọn vẹn.[77] Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã dạy trong tông huấn Familiaris Consortio rằng chuẩn bị hôn nhân phải được xem xét và thực hiện theo một trình tuần tự và liên tục và liên tục, qua ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị liền trước bí tích.[78]
2.2. Mục vụ đối với những người ly thân và ly dị không tái hôn
Cuộc sống vợ chồng gặp những hoàn cảnh khó khăn nặng nề đến nỗi họ không thể sống chung được nữa, và ly thân là phương cách cuối cùng của họ. Trong các trường hợp này, Giáo hội cho phép vợ chồng được ly thân nhưng vẫn phải trung thành với dây hôn phối bất khả phân ly.
Còn về vấn đề ly dị, theo quan điểm của Hội thánh, ly dị là tình trạng phi luân, vi phạm nghiêm trọng đến qui luật tự nhiên, “làm xáo trộn gia đình và xã hội, làm tổn hại đến giao ước cứu độ mà bí tích hôn phối là dấu chỉ.”[79] Tuy nhiên, “nếu một trong đôi vợ chồng là nạn nhân vô tội của phán quyết ly dị do tòa án dân sự, người này không vi phạm luật luân lý.[80] Trước hết, để tránh việc ly thân hoặc ly dị xảy ra, cộng đoàn tín hữu cùng với sự hỗ trợ của phòng tư vấn hôn nhân gia đình Công giáo nỗ lực quan tâm sinh hoạt của các gia đình, giúp họ tháo gỡ được những nguyên nhân gây ra khó khăn trong đời sống gia đình ngay từ ban đầu. Khi tình trạng ly thân hoặc li dị không thể tránh được, đôi vợ chồng, nhất là người người phối ngẫu vô tội, cần được quan tâm đặc biệt và tế nhị như TH Familiris consortio đã đề cập: 
Sự cô đơn và nhiều khó khăn khác nữa thường là số phận dành cho người phối ngẫu bị phân ly, nhất là nếu người ấy vô tội. Trong trường hợp đó, cộng đồng Giáo hội phải nâng đỡ người ấy hơn bao giờ, phải đem lại cho người ấy sự quí mến, liên đới cảm thông và giúp đỡ cụ thể để người ấy có thể trung thành ngay cả trong tình cảnh khó khăn của mình; phải giúp người ấy biết vun trồng sự tha thứ mà tình yêu thương Kitô giáo đòi hỏi và biết luôn luôn sẵn sàng nối lại cuộc sống vợ chồng trước kia.[81]
2.3. Vấn đề rước lễ đối với những ai ly dị - tái hôn
Liên quan đến vấn đề người ly dị tái hôn có được rước lễ hay không, Giáo lý Hội thánh Công giáo khẳng định:
Nếu những người ly dị lại kết hôn theo luật đời, họ ở trong một tình trạng nghịch với luật Thiên Chúa. Bởi vậy họ không thể rước lễ bao lâu còn tồn tại tình trạng này. Cũng vì lý do này, họ không thể thi hành một số trách nhiệm trong Giáo Hội. Sự hoà giải nhờ bí tích Sám hối chỉ có thể được ban cho những người thành thực hối hận vì đã phạm đến dấu hiệu của giao ước và của sự trung thành với Chúa Kitô, và quyết chí sống trong sự khiết tịnh trọn vẹn.[82]
Giáo lý còn nói thêm:
Sự tái hôn của những người đã ly dị khi người phối ngẫu hợp pháp vẫn còn sống, là điều trái nghịch với ý định và luật của Thiên Chúa đã được Chúa Kitô giảng dạy. Tuy họ không bị tách rời khỏi Giáo hội, nhưng họ không thể tới bàn tiệc Thánh Thể để rước Mình Chúa. Nhưng khuyên họ sống đời sống Kitô hữu của mình bằng cách giáo dục con cái trong đức tin.[83]
Tông Huấn Familiaris Consortio đoạn 84 nói về những người ly dị đã tái hôn và việc rước lễ của họ có những qui định chủ yếu như sau: Các mục tử và các cộng đoàn cần giúp các tín hữu ly dị tái hôn vói lòng bác ái cao độ. Họ vẫn thuộc về Giáo hội và có quyền được chăm sóc mục vụ cũng như cho họ tham dự vào đời sống của Giáo hội.
Đặc biệt, họ không thể được rước lễ vì hai lý do: thứ nhất, lý do nội tại là từ thực trạng sống của mình đã tự làm cho họ trở nên mất đi khả năng rước lễ và và tình trạng của họ mâu thuẫn một cách khách quan với thực tại hiệp thông trong bí tích Thánh Thể. Thứ hai, nếu cho họ rước lễ có thể gây cho các tín hữu đi tới chỗ sai lạc, hiểu lầm giáo lý của Giáo Hội về tính bất khả phân ly của hôn nhân Kitô giáo.
Cấm tất cả mọi chủ chăn, dù bất cứ vì nguyên do nào hay bất cứ vịn cớ gì, ngay cả vì lý do mục vụ, đều không được cử hành bất cứ một thứ nghi thức nào cho những người đã ly dị nay kết hôn lại… vì điều đó sẽ làm cho người ta có cảm tưởng rằng việc cử hành mới này thành sự và như thế sẽ đưa người ta đến chỗ hiểu sai lạc về sự bất khả phân ly của hôn nhân đã kết ước cách thành sự.[84]
Tông huấn Sacramentum Caritatis của Đức giáo hoàng Benedictô XVI, năm 2007 đã dành riêng số 29 đề cập mối liên hệ giữa Bí tích Thánh thể và tính bất khả phân lý của hôn nhân. Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI khẳng định một lần nữa là Giáo hội không thể chấp nhận cho những người ly dị và tái hôn được rước lễ xét vì tình trạng và điều kiện đời sống của họ mâu thuẫn một cách khách quan với sự kết hợp yêu thương giữa Chúa Kitô và Giáo hội, được biểu thị và tái hiện trong bí tích Thánh Thể.
Trong Tông huấn Amoris Laetitia, Đức Giáo hoàng Phanxicô dành toàn bộ chương 8 để suy tư về việc Giáo hội cần phải đối xử như thế nào đối với những người Công giáo đã ly dị và tái hôn. Đức Giáo hoàng không ban hành một luật mới hoặc quy định cho phép người Công giáo tái hôn có thể rước lễ, nhưng ngài đã thay đổi đáng kể lập trường của Giáo hội đối với họ. Giống như tài liệu chung kết Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình 2015, Đức Giáo hoàng kêu gọi sự “biện phân” mục vụ theo các tình huống cá nhân.
Đề cập đến các tình huống khác nhau mà người tái hôn có thể rơi vào, Đức Giáo hoàng Phanxicô bàn về “các yếu tố giảm nhẹ” mà giáo sĩ nên xem xét trong sự biện phân mục vụ của họ khi làm việc với người tái hôn:
Vì lợi ích của sự thật, các ngài buộc phải biện phân các hoàn cảnh một các thận trọng’. Mức trách nhiệm không giống nhau ở mọi trường hợp, và có những nhân tố khiến người ta mất cả khả năng đưa ra quyết định. Do đó, dù giáo huấn đã được đặt để cách rất rõ ràng, nhưng các mục tử phải tránh bất cứ phê phán nào không xem xét tới tính phức tạp của các tình huống khác nhau, và điều cần là phải lưu ý tới cách người ta cảm nghiệm và chịu buồn khổ như thế nào do thân phận của họ gây ra.”[85]
Theo tình thần Tông huấn Amoris Laetitia thì những người ly di tái hôn cần được sự giúp đỡ với tấm lòng bác ái rộng mở của các chủ chăn và toàn thể cộng đoàn tín hữu, vẫn còn có thể dự phần vào đời sống của Hội thánh. Họ không được hiệp thông trong Thánh Thể, tuy nhiên, những người ly dị tái hôn vẫn là Kitô hữu, vẫn là phần tử của dân Chúa. Họ chỉ không có được sự hiệp thông trọn vẹn nơi Giáo hội, nên cần có những hình thức quan tâm và gần gũi đối với họ. Như vậy, tông huấn không trực tiếp trả lời câu hỏi: người ly dị tái hôn có được rước lễ không? Thay vào đó, Đức Giáo hoàng đề nghị áp dụng “luật tiệm tiến” trong mục vụ với lưu ý rằng đó không phải là “tính tiệm tiến của lề luật”, được thể hiện qua ba động từ quan trọng: đồng hành, phân định và hội nhập.
2.4. Những người công giáo kết hôn theo hôn phối dân sự
Vì nguyên do ý thức hệ hay vì các lý do thực tiễn nào đó, những người hôn phối theo luật dân sự, nhưng từ chối cử hành hôn phối tôn giáo. Đây cũng là một sự dấn thân cho tình trạng sống chung nhất định, nhưng tính bền vững của loại hôn nhân này không bền vững, viễn tượng ly dị vẫn có thể xảy ra. Sự kết hợp giữa họ và Hội thánh bị rạn nứt, họ không được rước lễ.
Hoạt động mục vụ cần thắm đượm tình bác ái đối với những người trong tình trạng này, nhằm giúp họ biết phân định và chọn lựa đời sống theo đức tin, ân sủng họ nhận được khi chịu phép Thanh tẩy; trở lại sinh hoạt với cộng đoàn Kitô hữu và hợp thức hóa tình cảm của mình.[86]
2.6. Mục vụ những người chung sống không có hôn nhân
Đây là hình thức người nam và người nữ sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng mối dây liên kết của họ không có sự ràng buộc bởi một định chế công khai cả dân sự lẫn tôn giáo. Đời sống chung của họ gây hậu quả nghiêm trọng trên bình diện tôn giáo và xã hội. Theo tinh thần của Tông huấn Familiaris Consortio, với những hoàn cảnh này, cộng đoàn Kitô hữu và những vị chủ chăn cần tiếp cận với tấm lòng bao dung, đối thoại trong tình huynh đệ, để có thể nhận biết rõ nguyên nhân dẫn đến việc sống chung không hôn nhân, và kiên nhẫn khai sáng cho những người này. Nếu sự kết hợp của họ có nền tảng tình yêu hỗ tương chân thành, cộng đoàn mục vụ cần giúp họ vượt qua những cản trở khách quan và nội tại, tiến tới hợp thức hóa tình cảm của họ.
KẾT LUẬN
Như đã trình bày, Hôn nhân xuất hiện ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sáng tạo hôn nhân và đã khắc ghi ơn gọi hôn nhân vào trong bản tính của con người khi tạo dựng nên con người có nam có nữ. Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân lên hàng bí tích. Và Chúa đã dạy về tính bất khả phân ly của đời sống hôn nhân, đây là chân lý mà chúng ta không thể thay đổi được. Vì vậy, khi đánh giá về hôn nhân, một mặt chúng ta dựa vào lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh, nhưng mặt khác không nên áp dụng một cách cứng nhắc thiếu đi sự cảm thông đối với những người có hôn nhân sai với luật Hội thánh.
Vì thế, vấn đề mục vụ cho những trường hợp đặc biệt cần có những phương pháp thích hợp. Tông huấn Amoris  Laetitia của Đức Giáo hoàng Phanxicô đã hướng dẫn chúng ta có cái nhìn “bác ái mục vụ” với những người gặp khó khăn trong hôn nhân, theo đó Giáo hội cần thay đổi đường lối mục vụ: cần hòa nhập hơn là loại trừ, cần phải gần gũi với những gia đình rối ren, giúp họ đến gần với Thiên Chúa, thay vì lên án buộc tội. Không phải tất cả những người rối ren đều ở trong tình trạng tội trọng, mất ơn nghĩa với Chúa.[87]


[1] HĐGMVN, Thư chung Thánh hóa Gia đình, ngày 11/10/2002, số 9.
[2] Xc. St 1,26-17.
[3] St 2,18.
[4] St 2,19-20.
[5] Mt 19,8.
[6] Mc 10,11-12. 
[7] Mc 10,6-7; St 1,27; 2,24.
[8] Mc 10,9.
[9] Rm 7,1-3.
[10] 1Cr 7,10,11.
[11] Xc. 1Cr 11,3-5.
[12] 1Cr 7,3-4.
[13] Xc. Ep 5,21-25.
[14] Xc. Ed 16,8.
[15] Ep 5,25-26.
[16] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1617.
[17] 1Cr 7,10.
[18] 1Cr 7,11.
[19] Xc. 1Cr 7,12-13.
[20] Xc. 1 Cr 7,15.
[21] Trích lại trong Nguyễn Văn Trinh, Bí tích Hôn phối – tập VII, tr. 138.
[22] Ibid., tr.136.
[23] Ibid., trang 140.
[24] Xc. Ibid., trang 94.
[25] Xc. Ramon Garcia de Haro, Hôn nhân và gia đình trong các tài liệu của huấn quyền, Nguyễn Văn Dụ chuyển ngữ, tr. 93.
[26] Xc. Công đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 47 – 52.
[27] Công đồng Vaticano II, Gaudium et Spes, số 49.
[28] Ibid., số 50.
[29] Ibid.
[30] Xc. Phaolô VI, Humannae Vitae, số 9.
[31] Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 18.
[32] Xc. Ibid., số 11.
[33] Ibid., số 80.
[34] Xc. Lê An Phong, Hôn nhân theo kiểu Sống thử – sống chung và những vấn đề cần suy nghĩ, truy cập ngày 15/11/2016; http://caunguyenbangtraitim.com/html
[35] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2390.
[36] Ibid., số 2391.
[37] Công đồng Vaticanô II, Lumen Gentium, số 11.
[38] ĐGH Phanxicô, Amoris Laetitia, số 264.
[39] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, Nxb Thanh Niên, 1999, tr. 184.

[40] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, tr. 192.
[41] Xc. Ibid., tr. 193.
[42] Xc. Phanxicô, Amoris Laetitia, số 245.
[43] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, tr. 194.
[44] ĐGH Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 86.
[45] Ibid., số 42.
[46] Xc. Cao Mai Trần, Cẩm nang người trẻ vào đời 2, tr. 195.
[47] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2383
[48] Ibid., số 2386.
[49] Ibid., số 2383.
[50] Ibid., số 1649.
[51] Công đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 48.
[52] Xc. Christian Ethics, Thần học luân lý chuyên biệt, tập 3, tr. 131.
[53] Xc. Ibid.
[54] Xc. Christian Ethics, Thần học luân lý chuyên biệt, tập 3, tr.131.
[55] Mt 19,6.
[56] Công đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 48.
[57] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1701, 1702.
[58] Ibid., số 1931, 1935.
[59] Xc. ĐGH Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 83.
[60] ĐGH Phaolô VI, Humanae Vitae, số 14.
[61] Xc. Bộ Đức tin, Huấn thị Hồng ân Sự sống, số 2.
[62] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2271.
[63] Xc. Giáo Luật, điều 1398.
[64] Bộ Đức tin, Huấn thị Hồng ân Sự sống, số 2.
[65] Công đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 27.
[66] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2258
[67] Bộ Đức Tin, Huấn thị hồng ân Sự sống, số 2.
[68] HĐGMVN, Thư mục vụ về Môi trường Giáo dục Gia đình Công giáo, ngày 11/10/2002, số 18.
[69] Xc. Gioan Phaolô II, Famaliaris consortio, số 11.
[70] Công đồng Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 24.
[71] ĐGH Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 32
[72] Giáo lý Hội thánh Công Giáo, số 2346, 2347.
[73] ĐGH Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 37.
[74] Công đồng Vaticano II, Gravissimum Educationis, số 3. 
[75] Xc. Gioan Phaolô II, Famaliaris Consortio, số 36.
[76] Ibid., số 66.
[77] Ibid.
[78] ĐGH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, số 66.
[79] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2384.
[80] Ibid., số 2386.
[81] Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, số 83.
[82] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1650.
[83] Ibid., số 1665.
[84] Xc. ĐGH Phanxicô, Amoris Laetitia, số 84.
[85] Ibid., số 79.
[86] Xc. ĐGH Gioan Phaolô II, Familiaris Consortio, số 82.
[87] Xc. ĐGH Phanxicô, Amoris Laetitia, số 301.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn