Hãy hỏi vẻ
đẹp của trái đất, của biển khơi,
của khí trời nở phồng và lan tỏa,
của thiên nhiên và bầu trời…
hãy hỏi tất cả những thực tại ấy.
Tất cả sẽ trả lời bạn: ‘Hãy xem đó, chúng tôi thực là đẹp’. Vẻ đẹp của chúng là lời tuyên xưng.
Ai đã làm ra những cảnh đẹp thiên biến vạn hóa ấy,
nếu không phải là Đấng Toàn Mỹ không bao giờ đổi thay.[1]
của khí trời nở phồng và lan tỏa,
của thiên nhiên và bầu trời…
hãy hỏi tất cả những thực tại ấy.
Tất cả sẽ trả lời bạn: ‘Hãy xem đó, chúng tôi thực là đẹp’. Vẻ đẹp của chúng là lời tuyên xưng.
Ai đã làm ra những cảnh đẹp thiên biến vạn hóa ấy,
nếu không phải là Đấng Toàn Mỹ không bao giờ đổi thay.[1]
Dom. Trí Dũng, OP.
Vịnh gia thật chí lý khi ca ngợi
vẻ đẹp của thiên nhiên:
Trời
xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
không trung loan báo việc
tay Người làm. (19,2)
Thiên nhiên không phải là một sản phẩm
ngẫu nhiên, mà là công trình do Thiên Chúa sáng tạo nên. Ngay từ đầu, đức tin
Kitô Giáo đã nhìn nhận rằng thiên nhiên hiện hữu trong tương quan với Thiên
Chúa và con người. Thiên nhiên được dựng nên cho con người, và con người được dựng
nên cho Thiên Chúa. Tác giả sách Sáng Thế ghi rõ:
Hãy sinh sôi, nảy nở cho nhiều, cho
đầy mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt
đất. Ta ban cho các ngươi mọi thứ rau cỏ mang hạt giống trên mặt đất, và mọi
thứ cây có trái mang hạt giống, làm lương thực cho các người (St
1,28-29).
Điều này, một mặt, cho thấy con người
có một vị trí trổi vượt trên các thụ tạo khác vì được Thiên Chúa tuyển chọn,
mời gọi và thông ban khả năng để làm chủ; mặt khác, điều này cũng chỉ rõ con người
chỉ là cộng tác viên trong công trình cai quản và bảo tồn vũ trụ thiên nhiên
này mà thôi. Vì không phải là chủ tể tuyệt đối của thiên nhiên vũ trụ này, nên
con người không có quyền tuyệt đối để hành xử cách tàn bạo đối với thiên nhiên.
Con người cần ý thức rõ trách nhiệm và vai trò của mình trước sứ mạng mà Thiên
Chúa trao phó để đừng biến thiên nhiên thành một thứ “hàng hóa” để trục lợi cho
riêng mình. Thiên nhiên theo cách thức của mình cũng được mời gọi để làm tôn
lên vẻ đẹp của Thiên Chúa sáng tạo. Nhờ ý
thức vai trò của thiên nhiên trong công trình sáng tạo và cứu độ của
Thiên Chúa, con người sống mối tương quan với thiên nhiên cách hòa hợp và tốt
đẹp. Như thế, cả thiên nhiên và con người đều được mời gọi để ca tụng và chiếu
tỏa vẻ đẹp của Thiên Chúa.
1.
Thiên Chúa là Chủ tể của công trình sáng tạo vũ trụ và con người
Thiên
Chúa là căn nguyên đệ nhất làm phát sinh vũ trụ và con người
Kinh Thánh mở đầu với niềm xác
tín về Thiên Chúa tạo dựng như sau: “Lúc
khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất” (St 1,1). Những lời đầu tiên này
của Thánh Kinh xác quyết ba điều. Thứ nhất, Thiên Chúa vĩnh cửu đã ban một khởi
điểm cho tất cả những gì hiện hữu bên ngoài Ngài; thứ hai, chỉ duy mình Thiên
Chúa là Đấng Tạo Hoá (động từ “tạo dựng”- tiếng Hipri là bara -
luôn có chủ từ là Thiên Chúa); và thứ ba, tất cả những gì hiện hữu đều tùy
thuộc vào Đấng đã cho chúng hiện hữu.
Thiên Chúa, theo mặc khải của
Kitô giáo, không phải là một Thiên Chúa độc đoán hay khép kín. Người là Thiên
Chúa yêu thương. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được nhận thấy rõ rệt trong công
trình sáng tạo. Quả thế, thánh Gioan nối kết câu đầu của Sách sáng thế với Lời
tự ngôn trong Tin Mừng của mình rằng: “Lúc
khởi đầu đã có Ngôi Lời… và Ngôi Lời là Thiên Chúa… Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được
tạo thành và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Như thế, Thiên Chúa đã tạo dựng tất cả nhờ Ngôi Lời vĩnh cửu, Con yêu dấu của
Người. “Trong Người, muôn vật được tạo
thành, trên trời cùng dưới đất… Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và
cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người”
(Cl 1,16-17). Đức tin của Hội Thánh cũng xác quyết một cách tương tự về hoạt
động tạo dựng của Chúa Thánh Thần. Trong
kinh Tin Kính, Công đồng Nixêa - Constantinôpôli có đề cập đến Chúa Thánh Thần và quy cho Người là “Chúa, và là Đấng ban sự sống.”[2] Chúa Thánh Thần là “Thần Khí Sáng Tạo”[3] làm tác sinh muôn loài. Tạo
dựng là công trình chung của Ba Ngôi Chí Thánh, vì lẽ “chỉ có một Thiên Chúa duy nhất… Ngài là Cha, là Thiên Chúa, là Đấng
Tạo Hoá, là Tác Giả, là Đấng làm nên mọi sự, Đấng tự mình tác tạo mọi sự, nghĩa là nhờ Lời và
Đức Khôn Ngoan của Ngài”[4].
Sách Giáo lý Hội Thánh Công
giáo, số 296 dạy rằng:
Chúng ta tin Thiên
Chúa không cần một thứ gì có trước hoặc một sự trợ giúp nào để sáng tạo. Công
trình sáng tạo cũng không phải là một sự phát xuất tất yếu từ bản thể Thiên
Chúa. Thiên Chúa tự do sáng tạo “từ hư vô”.
Điều này cho thấy, vũ trụ
không phải tự nhiên mà có, nhưng vũ trụ này được chính Thiên Chúa dựng nên và
sắp xếp cho có trật tự. Thiên Chúa là nguyên nhân tác thành và cũng là nguyên
nhân cứu cánh cho mọi sự hiện hữu.
Mục đích
việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người
Công trình sáng tạo của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao;
trí khôn con người không thể dò cho hết được sự cao siêu tuyệt vời nơi công
trình kỳ diệu của Thiên Chúa. Kinh Thánh cho hay: “Mọi công trình của Người kỳ diệu biết bao! Những gì thấy được chỉ như
một ánh lửa” (Hc 42, 22). Lại nữa, khi đứng trước kỳ công tuyệt diệu như
thế, thi nhân cảm thấy ngây ngất thán phục công trình của Thiên Chúa như lời
Kinh Thánh viết: “Kể sao cho xiết những
gì muốn nói; tắt một lời: “Người là tất cả!”. Làm sao đủ sức để tôn vinh Người?
Vì chính Người là Đấng Cao Cả, vượt trên mọi công trình Người thực hiện”
(Hc 43,27-28). Những lời tuyệt vời này của Sách Huấn Ca đã tóm gọn bài ca chúc
tụng mà mọi thời đại mọi miệng lưỡi dưới gầm trời dâng lên Ðấng Tạo Hóa, Ðấng
đã tỏ mình ra qua muôn vàn công trình kỳ diệu đẹp đẽ của Người.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo chỉ rõ hai mục đích của
việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và con người:
Đây là chân lý căn
bản, mà Thánh Kinh và Truyền Thống không ngừng giảng dạy và biểu dương: “Thế
giới được tạo dựng để làm vinh danh Thiên Chúa.” Thánh Bonaventura giải thích:
Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sự “không phải để gia tăng vinh quang, nhưng để biểu
lộ và thông ban vinh quang đó”. Quả thật, Thiên Chúa không thể có lý do nào
khác để tạo dựng, ngoài tình yêu và sự tốt lành của Ngài: ‘Chính chìa khoá tình
thương đã mở bàn tay Người để sản sinh vạn vật’. Công đồng Vaticanô I giải
thích: ‘Thiên Chúa duy nhất, trong ý định hoàn toàn tự do, ngay khởi đầu đã tạo
dựng tất cả từ hư không, loài thiêng liêng hay loài có xác thể’…
Thiên Chúa bày tỏ
vinh quang của Người qua việc biểu lộ và thông ban sự tốt lành của Ngài. Vì thế
Người đã tạo thành vũ trụ. Theo ý muốn đầy lòng nhân hậu của Người, Người đã
tiền định cho ta “làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô, để xưng tụng vinh
quang của ân sủng Người” (Ep 1,5-6). “Vì vinh quang của Thiên Chúa là con
người sống, và sự sống của con người là được thấy Thiên Chúa: nếu trước đây sự
mạc khải Thiên Chúa qua công cuộc sáng tạo đã đem đến sự sống cho mọi loài trên
trái đất, thì sự biểu lộ Chúa Cha nhờ Ngôi Lời lại càng đem lại sự sống gấp bội
cho những ai thấy Thiên Chúa”. Cùng đích tối
hậu của sáng tạo là: “Thiên Chúa được muôn loài suy phục (1 Cr 15,28),
khi Người tỏ hiện vinh quang cho Người và đem lại hạnh phúc cho chúng ta”. [5]
Mục đích tiên khởi
Mục đích tiên khởi khách quan
của sáng tạo hay mục đích gắn liền với công trình sáng tạo, chính là việc mặc
khải các điều thiện hảo và vinh quang của Thiên Chúa. Kinh Thánh xác nhận cách
rõ ràng rằng Thiên Chúa là An-pha và O-mê-ga, khởi đầu và cùng tận của vạn vật.
Tác giả sách Khải Huyền viết: “Đức Chúa
là Thiên Chúa phán: ‘Ta là An-pha và O-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang
đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1,8). Thánh Phaolô tông đồ cũng viết: “Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người
mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen!” (Rm
11,36).
Khi nói mục đích tiên khởi của
việc sáng tạo là nhằm mặc khải vinh quang của Thiên Chúa, điều này không có
nghĩa rằng Thiên Chúa ích kỷ chỉ muốn quy hướng mọi sự về Người. Vì lẽ tất cả
mọi lời ca tụng của các thụ tạo không thêm gì vào trong yếu tính thần linh của
Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa không thiếu bất cứ điều thiện hảo nào. Thế nhưng
đúng hơn chính nhờ sự thông dự vào trong vinh quang của Thiên Chúa, các thụ tạo
đạt đến cùng đích hiện hữu của mình.
Mục đích thứ hai
Mục đích thứ hai của việc sáng tạo là chia sẻ ân huệ cho
thụ tạo, đặc biệt là hạnh phúc của các thụ tạo có lý trí. Công đồng Vaticanô I
dạy rằng:
Thiên Chúa đã làm như vậy (sáng tạo tất cả từ hư không),
với lòng nhân hậu và nhờ sức mạnh toàn năng của Người; không phải để gia tăng hạnh phúc của Người, hoặc để đạt tới sự trọn
hảo, nhưng là để biểu lộ trọn vẹn sự thiện hảo ấy qua những điều tốt lành Người
ban cho các thụ tạo.[6]
Như vậy, Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ “để tỏ lộ sự thiện hảo”
của Người (mục đích tiên khởi) “qua những điều tốt lành Người ban cho các thụ
tạo” (mục đích thứ hai).
Kinh Thánh nhấn mạnh rằng, vũ trụ được tạo thành là để phục
vụ con người. Con người là chóp đỉnh trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Vũ trụ quy hướng về con người và cả hai cùng quy hướng về Thiên Chúa. Vì thế,
Thiên Chúa ban cho con người quyền bá chủ trên các loài thụ tạo khác, nhằm đảm
bảo cho con người có những phương thế để đạt đến hạnh phúc; nhưng hạnh phúc này
phải làm vinh danh Thiên Chúa. Tác giả Thánh vịnh cho rằng: “Chúa cho con người
chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho
làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv
8,6-7). Tác giả sách Khải Huyền xác nhận quyền tối cao của Thiên Chúa như sau:
“Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh quang, danh dự
và uy quyền, vì Ngài đã dựng nên muôn vật, và do ý Ngài muốn, mọi loài liền có
và được dựng nên” (Kh 4,11).
Hai mục đích của việc sáng tạo tạo thành một khối thống
nhất không thể chia cắt được; thật vậy, việc tôn vinh Thiên Chúa qua việc nhận
biết và yếu mến Thiên Chúa sẽ tạo thành hạnh phúc cho thụ tạo có lý trí. Để có
thể chống lại những luận chứng cho rằng vinh quang bên ngoài Thiên Chúa như một
cái gì hữu hạn, không thể là mục đích tối hậu của sáng tạo được, cần phải phân
biệt finis qui và finis quo của công trình sáng tạo. Finis qui (mục đích khách
quan) là điều được đi tìm; finis quo (mục đích mô thức) là điều nhờ đó đối
tượng cần tìm kiếm được đạt tới. Finis qui của công trình sáng tạo chính là sự tốt
lành nội cố của Thiên Chúa đồng nhất với yếu tính thiên linh. Finis quo là sự
thông hiệp của thụ tạo vào sự tốt lành của Thiên Chúa, là điều thực hiện được
hạnh phúc của thụ tạo có lý trí. Định tín của công đồng Vaticanô I (Dz 1805);
theo đó, vũ trụ được sáng tạo vì vinh quang
của Thiên Chúa, rõ ràng là nhắm tới finis quo; thật vậy, sự thông hiệp của thụ
tạo vào sự tốt lành của Thiên Chúa đồng nhất với vinh quang bên ngoài của Thiên
Chúa. Các điều thiện hảo của thụ tạo chỉ là phản ánh các điều thiện hảo của
Đấng Sáng tạo (gloria objectiva); việc
chiêm ngắm các điều thiện hảo của thụ tạo dẫn đưa các thụ tạo có lý trí đến
việc nhận biết và công nhận các điều thiện hảo của Đấng Sáng tạo (gloria
formalis). Trong khi finis quo hữu hạn, thì finis
qui vô hạn. Thiên Chúa là cùng đích tối hậu cho mọi thụ tạo, đó là điều mà
Thánh Kinh muốn nói với chúng ta[7].
Việc Thiên
Chúa sáng tạo nên vũ trụ và con người chính là để cho thụ tạo được thông sự vào
sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ không phải để bắt
buộc con người hay các thụ tạo khác thờ lạy Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người
và toàn thể thế giới tham dự vào vinh quang của Ngài. Khi chiêm ngưỡng vũ trụ,
con người cảm nghiệm được quyền năng của Thiên Chúa. Vũ trụ như là một cuốn
sách để qua đó con người đọc được Thánh ý của Thiên Chúa. Thiên nhiên và con
người có cùng một nguồn gốc tác sinh là Thiên Chúa và cùng hướng về Thiên Chúa
như cứu cánh tối hậu của mình. Việc thông dự vào sự sống thần linh của Thiên
Chúa là một diễm phúc vì nhờ sự thông dự này, con người và thiên nhiên vươn lên
để hoàn thiện mình theo như cách thức Thiên Chúa phú ban cho các thụ tạo của
Người.
2. Vẻ
đẹp và tính tự trị của các loài thụ tạo trong công trình sáng tạo
Vẻ đẹp
của thiên nhiên trong công trình sáng tạo
Vẻ đẹp
của Thiên Chúa biểu lộ trong vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ. Con người có thể
làm mất đi vẻ đẹp ấy, khi con người đặt mình làm trung tâm và không nhận ra
tương quan hòa hợp của mình với Thiên Chúa, với anh chị em và với thiên nhiên
kỳ thú. Thụ tạo mang dấu ấn của Đấng Sáng Tạo, và Đấng Sáng Tạo là chủ thể của
toàn bộ công trình sáng tạo. Về những người tìm kiếm chân lý qua con đường tự
nhiên, thánh Phaolô khẳng định:
Những
gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì
chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn
thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người,
thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được
qua những công trình của Người (Rm 1,19-20).
Đối
với những người đã biết Thiên Chúa và chân nhận giáo lý của Người, sách Giáo Lý
Hội Thánh Công Giáo xác nhận rằng:
Với
tâm hồn cởi mở đón nhận sự thật và vẻ đẹp, với lương tri, tự do và tiếng nói của
lương tâm, với khát vọng vươn tới vô tận và hạnh phúc, con người tự hỏi về sự
hiện hữu của Thiên Chúa. Qua những đặc tính trên, con người nhận ra những dấu
chỉ cho thấy mình có linh hồn. “Vì mầm sống vĩnh cửu mà con người mang nơi
mình, không thể giản lược chỉ duy vào vật chất, nên linh hồn con người chỉ có
thể xuất phát từ Thiên Chúa[8].
Khi
cẩn trọng xem xét và khám phá sự kỳ diệu của thiên nhiên, người Kitô hữu cũng
có thể bắt gặp trong các lời tôn vinh của thánh Augustinô:
Hãy
hỏi vẻ đẹp của trái đất, của biển khơi, của khí trời nở phồng và lan tỏa, của
thiên nhiên và bầu trời… hãy hỏi tất cả những thực tại ấy. Tất cả sẽ trả lời bạn:
‘Hãy xem đó, chúng tôi thực là đẹp’. Vẻ đẹp của chúng là lời tuyên xưng. Ai đã
làm ra những cảnh đẹp thiên biến vạn hóa ấy, nếu không phải là Đấng Toàn Mỹ
không bao giờ đổi thay.[9]
Tác
giả Thánh vịnh cũng cho thấy vẻ đẹp của Thiên Chúa nơi thiên nhiên. Thiên nhiên
là dấu chỉ cho thấy vinh quang của Thiên Chúa, như tác giả Thánh vịnh mô tả:
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ,
chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. (Tv 19, 2-3)
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ,
chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. (Tv 19, 2-3)
Kinh Thánh ghi lại rất rõ ràng
Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ bằng quyền năng và do lòng nhân hậu của
Người. Cách thức Kinh Thánh diễn tả công trình tạo dựng qua từng ngày cho thấy
Đấng Tạo Hoá muốn chăm chút cho công trình của mình, bởi vì Người muốn ban tặng
cho con người món quà tuyệt vời ấy như là công trình của tình yêu, vừa là tài
nguyên nuôi sống con người và còn là tác phẩm nghệ thuật tinh xảo nhất. Tác giả
Thánh vịnh ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên như sau:
Hãy ca tụng
Chúa, hỡi lửa hồng mưa đá,
tuyết trắng mây mù, ngọn cuồng phong,
cấp thừa hành lời Chúa.
Núi với đồi trùng trùng điệp điệp,
cây ăn trái và đủ loại bá hương,
thú vật rừng hoang cùng là gia súc, l
oài bò sát và mọi giống chim trời. (Tv 148,9-10)
tuyết trắng mây mù, ngọn cuồng phong,
cấp thừa hành lời Chúa.
Núi với đồi trùng trùng điệp điệp,
cây ăn trái và đủ loại bá hương,
thú vật rừng hoang cùng là gia súc, l
oài bò sát và mọi giống chim trời. (Tv 148,9-10)
Đồng thời tác giả cũng viết:
Ngài khiến
mọc cỏ xanh,
nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc
cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người. (Tv 104,14-15)
nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc
cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người. (Tv 104,14-15)
Đức
Thánh Cha Phanxicô gọi thiên nhiên với một danh xưng thật thân thương trìu mến: mẹ thiên nhiên[10]. Như người mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt
ngào, mẹ thiên nhiên luôn hào phóng cung cấp cho con người lương thực và những
nhu cầu của cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mà nhân loại từng thế hệ nối tiếp nhau
sinh sống và phát triển. Vẻ đẹp của thiên nhiên không phải chỉ để nhìn ngắm mà
thiên nhiên còn hướng tới công dụng để phục vụ và giúp con người phát triển và
thăng tiến. Thế nhưng, nếu con người không biết trân trọng và bảo tồn thiên
nhiên thì con người sẽ gánh lấy những hậu quả đáng tiếc từ những hành động sai
lạc của mình từ chính môi trường thiên nhiên nơi mình sinh sống và phát triển.
Tính
tự trị của các loài thụ tạo trong công trình sáng tạo
Đức Giáo
Hoàng Phanxicô cho thấy hiện trạng đau thương của con người khi đánh mất các
mối tương quan thân tình với Thiên Chúa và với thiên nhiên vì phạm tội:
Trình
thuật sáng tạo trong sách Sáng Thế, trong ngôn ngữ biểu trưng và
trình thuật, chứa đựng những lời giảng dạy sâu xa về hiện sinh con
người và thực tại lịch sử của họ. Trình thuật này muốn nói, hiện
sinh con người dựa trên ba sự liên hệ căn bản, liên kết với nhau thật
mật thiết: liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và với trái đất. Theo
như lời Thánh Kinh, ba liên hệ sống động này đã bị phá vỡ, không
những bên ngoài, nhưng cả nội tại bên trong. Sự đổ vỡ này là tội
lỗi. Sự hòa hợp giữa Đấng Sáng Tạo, nhân loại và toàn thể sáng tạo đã bị phá vỡ qua hành động muốn
thay thế vị trí của Thiên Chúa, khi từ chối công nhận chúng ta
là những thụ tạo hữu hạn. Hành động này đã làm sai lệch mệnh lệnh
“cai quản” trái đất (x. St 1, 28) “xây dựng” và “che chở” trái đất (x.
St 2,15). Hậu quả là liên hệ thật hòa hợp thuở ban đầu giữa con
người và thiên nhiên bước vào xung khắc (x. St 3,17-19)[11].
Thế nhưng,
Thiên Chúa không bỏ mặc con người và các loài thụ tạo trong tội nhưng đã tái
tạo con người và các loài tạo khác trong Đức Kitô. Thánh Phaolô viết:
Vì
Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như
muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra
trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an, cho mọi loài dưới đất và muôn vật
trên trời (Cl 1,19-20).
Cái chết và
sự phục sinh của Đức Kitô là cao điểm của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho
loài người.
Thiên Chúa
không những ban cho các thụ tạo sự hiện hữu, mà còn ban cho chúng một bản tính
riêng phù hợp với hiện hữu của chúng. Công Đồng đưa ra một phân biệt căn bản
giữa sự độc lập “chính đáng” và “không chính đáng” của các thụ tạo trần thế,
được hiểu theo cách nói trên, trong tương quan với chân lý về tạo dựng. Sự độc
lập là “không chính đáng” nếu cho rằng các thụ tạo độc lập đối với Thiên Chúa-
Đấng Tạo Thành. Thật sai lầm khi cho rằng các thụ tạo không lệ thuộc Thiên
Chúa, và nhân loại có thể sử dụng các tạo vật đó mà không cần nói đến Đấng Tạo
Thành. Đó là cách hiểu và hành xử hoàn toàn đi ngược lại với chân lý về tạo
dựng. Ngược lại, sự độc lập hay tự trị của các thụ tạo sẽ là chính đáng, theo
Hiến Chế Gaudium et Spes, nếu các thụ tạo hưởng quyền tự do thích hợp với chúng
“theo ý Đấng Tạo Thành”. Quyền tự do này có gốc rễ từ bản tính các thụ tạo và
gắn liền với cứu cánh việc tạo dựng. Công Đồng nhìn nhận rằng:
Do
chính cách thức tạo dựng, mọi vật đều được tác thành với các phẩm tính bền
vững, chân thực và tốt lành cũng như có những định luật và trật tự riêng…Những
ai kiên nhẫn và khiêm tốn nỗ lực nghiên cứu sâu xa những bí ẩn của vạn vật, vẫn
được bàn tay Thiên Chúa hướng dẫn, Đấng bảo trì muôn loài và cho chúng hiện hữu
theo bản tính riêng mỗi loài[12].
Chắc chắn
rằng Thiên Chúa vĩnh cửu nên hành động của Người cũng mang tính vĩnh cửu, thế
nhưng các thụ tạo của Người lại cần đến một tiến trình để đạt đến sự hoàn thiện
mình theo bản tính đã được phú ban.
Sau
khi sáng tạo, Thiên Chúa không bỏ mặc các thụ tạo của Người. Người không chỉ
ban cho chúng hữu thể và hiện hữu, Người còn luôn gìn giữ chúng hiện hữu, cho
chúng khả năng hành động và đưa chúng đến cùng đích. Một trong những nguồn mạch
khôn ngoan và tự do, niềm vui và niềm cậy trông của con người là nhận ra mọi sự
tùy thuộc hoàn toàn vào Đấng Tạo Hóa[13].
Việc con
người sa ngã là nguyên nhân gây nên sự xáo trộn nơi các mối tương quan, nhưng
điều này không làm mất đi bản tính mà Thiên Chúa đã tặng ban cho con người và
các thụ tạo khác. Khi Thiên Chúa sáng tạo vạn vật và phú ban cho chúng một bản
tính tự chủ, Thiên Chúa tôn trọng bản tính đó của thụ tạo. Sách Giáo lý Hội
Thánh Công Giáo dạy rằng:
Mỗi
thụ tạo đều có sự tốt lành và hoàn hảo riêng…Theo ý Thiên Chúa, các thụ
tạo khác nhau đều phản chiếu một chút sự khôn ngoan và sự tốt lành vô biên
của Thiên Chúa, mỗi thụ tạo mỗi cách. Chính vì thế, con người phải tôn
trọng sự tốt lành riêng của từng thụ tạo để tránh sử dụng nó một cách
bừa bãi, nếu không con người sẽ coi thường Đấng Tạo Hóa và kéo theo nhiều hậu
quả nguy hại cho mình và môi sinh[14].
Riêng con
người, hữu thể có lý trí và tự do, còn phải tiến triển và hoàn thành bản thân
theo chương trình Thiên Chúa đã ấn định cho cá nhân và xã hội loài người. Theo
mức độ con người tìm kiếm “khám phá, khai thác và sắp đặt” dựa vào lý trí sáng
suốt cách thích hợp các quy luật và giá trị của vũ trụ, con người không những
chỉ tham gia cách khôn ngoan vào sự tự do chính đáng của mọi thụ tạo qua việc
cộng tác với Thiên Chúa, mà còn thực hiện quyền tự do thích hợp chính đáng để
thành toàn chính mình. Như thế, con người cần nhận thức được tính tự trị của
các loài thụ tạo khác và từ đó khám phá ra sự quan phòng đầy yêu thương của
Đấng Tạo Hóa. Đức Thánh Cha Phanxicô viết:
Khi
nhấn mạnh con người là hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta không được
quên rằng mỗi thụ tạo đều có một phận vụ và không có điều gì dư
thừa. Toàn bộ vũ trụ vật chất là dấu chỉ tình thương của Thiên
Chúa, sự âu yếm vô tận của Người đối với chúng ta. Đất đai, nguồn
nước, núi non – tất cả đều là sự âu yếm của Thiên Chúa[15].
3.
Thiên nhiên và con người cùng chung tiếng ngợi ca Thiên Chúa
Con
người được Chúa mời gọi để cai quản vũ trụ chứ không phải để khai thác và hủy
diệt
Vũ trụ được
Thiên Chúa sáng tạo nên và con người được mời gọi cộng tác trong công cuộc sáng
tạo đó. Kinh Thánh chỉ rõ Thiên Chúa là nguyên lý sáng tạo nên tất cả mọi loài
bằng cách làm cho chúng được hiện hữu. Con người được Thiên Chúa mời gọi cùng
cộng tác với Ngài để làm cho vũ trụ này tốt đẹp hơn và để thành toàn con người.
Vũ trụ thiên nhiên nơi con người sinh sống, làm việc và phát triển là một căn
nhà chung của nhân loại. Vì thế, con người cũng có tương quan với vũ trụ thiên
nhiên nơi mình sinh sống, cư ngụ. Ngược lại, vũ trụ này cũng gắn kết cách nào
đó với con người như là chóp đỉnh của công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Thế
nhưng, con người cần nhìn nhận cách rõ ràng rằng mình chỉ là người cư trú chứ
không phải là chủ tể tuyệt đối của thế giới thiên nhiên. Thế nên, con người
không thể tự cho mình quyền phá huỷ thiên nhiên vũ trụ này. Đức Giáo Hoàng
Phanxicô chỉ ra rằng:
Các thụ
tạo trong thế giới này không thể nào được xem như một điều thiện hảo
mà không có chủ: “Lạy Chúa, tất cả đều là gia tài của Ngài, Ngài
là niềm vui của cuộc đời” (Xc. Kn 11,26). Từ đó, đưa đến xác tín tất
cả thụ tạo trong vũ trụ đều do một Cha sáng tạo, nên đã liên kết
với nhau bằng một liên hệ vô hình và chúng ta, một cách nào đó,
cùng với các thụ tạo thành một gia đình, một cộng đoàn cao thượng
thúc đẩy chúng ta đi đến một sự tôn trọng mang sắc thái linh thiêng,
yêu thương và khiêm tốn.[16]
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng phê bình những lối hiểu sai lạc về thiên
nhiên, coi thiên nhiên như công cụ để trục lợi cho riêng mình. Điều này sẽ đưa
đến những hệ lụy nguy hại cho chính con người. Ngài nhận định:
Những suy
nghĩ sẽ sai lầm, khi cho các hữu sinh khác như các đối tượng, phải
tùng phục quyền hành tùy tiện của con người. Khi con người nhìn thiên
nhiên như là đối tượng lợi dụng, sẽ đưa đến những hệ lụy quan trọng
cho xã hội. Cái nhìn tùy tiện của kẻ mạnh, sẽ tạo nên không biết
bao nhiêu sự bất bình đẳng, không công bằng và bạo quyền trên phần
đông loài người, vì những tài nguyên sẽ dần rơi vào tay những người
nắm quyền hành: kẻ chiến thắng sẽ nắm lấy tất cả: lý tưởng về
hòa hợp, công bằng, tình huynh đệ và hòa bình như Đức Giêsu đòi hỏi,
sẽ nghịch lại với mẫu này; người nắm quyền sẽ bóc lột con người
trong thời đại của mình: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy
mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản
dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em,
thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20, 25-26).[17]
Bảo vệ
thiên nhiên là cách thức làm cho con người gần gũi với Đấng Tạo Hóa hơn. Khi
bảo vệ môi trường thiên nhiên, chúng ta đồng thời cũng chống lại và lên án
những hình thức chiến tranh, lên án những phương pháp khai thác tuỳ tiện và vô
độ nguồn tài nguyên của vũ trụ. Hơn thế nữa, bảo vệ thiên nhiên còn là một
hình thức xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn trọng lẫn nhau, kiến tạo
nên sự hòa hợp tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa và với thế giới tạo thành
này.
Con người, thông qua thiên nhiên, ca ngợi
Thiên Chúa
Khi nói về
sự sáng tạo, Kinh Thánh không chỉ nói về lúc ban đầu khi Thiên Chúa truyền và
có mọi sự; Kinh Thánh còn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa sáng tạo và gìn giữ các thụ
tạo của Người mọi giây phút. Thụ tạo chẳng bao giờ có thể hiện hữu độc lập với
Thiên Chúa vì Người là căn nguyên và nền tảng cho hiện hữu của mọi thụ tạo.
Thiên Chúa dựng nên vũ trụ và loài người “từ hư vô” do ý muốn nhân từ và tự do
của Người. Vì thế, nếu Người không muốn, thì không có thụ tạo nào có thể hiện
hữu được.
Mặc khải
Kinh Thánh cho chúng ta nhận biết rằng thiên nhiên chẳng những mang dấu ấn của
Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi sự sống, mà còn chuyển tải vẻ đẹp của chúng
đến cho các thụ tạo khác. Thiên nhiên nói lên quyền năng và vẻ đẹp thiện hảo
của Thiên Chúa khiến cho con người chỉ biết kính phục và tôn thờ. Tuy nhiên, để
có thể nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa vang lên trong thiên nhiên vũ trụ
này, con người cần phải mở lòng ra để lắng nghe, đón nhận và chiêm ngắm. Làm sao chúng ta có thể cảm nghiệm
về Chúa Ba Ngôi nơi thiên nhiên vũ trụ nếu chúng ta không biết lắng đọng
cõi lòng và để cho Chúa Thánh Thần tác động. Vì lẽ, qua thiên nhiên, con người
nhận thấy không những hình ảnh của một Thiên Chúa duy nhất theo nghĩa chung
chung, mà còn cả những dấu vết của một vị Thiên Chúa tình yêu. Thật vậy, “Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không phải là ba nguyên lý của thụ tạo mà là
một nguyên lý duy nhất. Nhưng mỗi Ngôi Vị thực hiện công trình chung theo đặc
tính riêng.”[18]
Vậy khi chiêm ngưỡng vũ trụ vĩ đại và tuyệt diệu này, con người cần dâng
lên Thiên Chúa lời chúc tụng. Thánh Phanxicô đã có những cảm nghiệm thật tuyệt
vời về Thiên Chúa khi chiêm ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên như sau:
Ngợi khen
Chúa, lạy Chúa tôi,
với muôn loài thọ tạo, đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày,
nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi,
Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Trăng và muôn Sao,
Chúa dựng trên nền trời: lung linh, cao quí và diễm lệ.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Gió, Không khí và Mây trời,
cảnh thanh quang và bát tiết tứ thời,
nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Nước, thật lợi ích và khiêm nhu,
quí hóa và trinh trong.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Lửa, nhờ Anh, Chúa sáng soi đêm,
Anh đẹp và vui tươi, oai hùng và mạnh mẽ.[19]
với muôn loài thọ tạo, đặc biệt nhất Ông Anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày,
nhờ Anh, Ngài soi chiếu chúng tôi,
Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh tượng trưng Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Trăng và muôn Sao,
Chúa dựng trên nền trời: lung linh, cao quí và diễm lệ.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Gió, Không khí và Mây trời,
cảnh thanh quang và bát tiết tứ thời,
nhờ Anh, Chúa bảo tồn muôn vật.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị Nước, thật lợi ích và khiêm nhu,
quí hóa và trinh trong.
Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Anh Lửa, nhờ Anh, Chúa sáng soi đêm,
Anh đẹp và vui tươi, oai hùng và mạnh mẽ.[19]
Đức
Phanxicô trong Thông điệp Laudato sí
đã viết:
Trong
vũ trụ này, được tạo lập do các hệ thống mở rộng để liên kết với
nhau, chúng ta có thể khám phá ra không biết bao nhiêu hình thức liên
hệ và chia sẻ. Điều này đưa chúng ta đến tư tưởng, toàn thể khai mở
vì sự siêu vượt của Thiên Chúa, trong đó vũ trụ sẽ được triển khai.
Niềm tin giúp chúng ta giải thích ý nghĩa và vẻ đẹp mầu nhiệm của
những gì đang xuất hiện. Sự tự do của con người có thể đem đến một
sự nâng đỡ khôn ngoan cho một sự phát triển tích cực, nhưng cũng có
thể gây nên một điều xấu mới, những nguyên nhân của khổ đau và suy
thoái đích thực. Điều này đã xuất hiện trong lịch sử căng thẳng và
bi đát của loài người, có thể diễn ra trong việc phát triển sự tự
do, trưởng thành, cứu độ và tình yêu hay trên một con đường suy thoái
và hủy hoại lẫn nha.”[20]
Thiên nhiên
mong chờ được dự phần với con người trong Nước Thiên Chúa
Thánh
Phaolô tông đồ gắn kết vận mạng của muôn loài thụ tạo khác với cùng đích tối
hậu của con người là đạt đến vinh quang của Thiên Chúa như sau:
Tôi nghĩ rằng: những đau khổ của thời hiện tại sánh sao được với vinh
quang sẽ được mặc khải nơi chúng ta, vì muôn loài thụ tạo những ngong ngóng đợi
chờ Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã
phải phục tùng sự hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Đấng đã bắt
chúng phải phục tùng; tuy nhiên, chúng hy vọng cũng sẽ được tự do, thoát khỏi
vòng nô lệ cảnh hư nát, để được hưởng tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa.[21]
Đức
Thánh Cha Phanxicô nhận định:
Toàn thể vũ trụ
với những liên hệ đa dạng của nó, cho thấy sự phong phú của Thiên
Chúa một cách tốt đẹp nhất. Thánh Tôma thành Aquinô với sự khôn ngoan
của mình, cho thấy rằng sự phong phú và đa dạng đều xuất phát từ ý
định của Tác Nhân tiên khởi, Đấng muốn rằng “điều gì thiếu sót nơi
thụ tạo để trình bày sự nhân từ thần linh, sẽ được bổ túc bằng
thụ tạo khác”. Chỉ vì sự tốt lành của Người “không thể do một thụ
tạo có thể trình bày cách đầy đủ
được”. Vì thế, chúng ta phải nắm vững sự khác biệt của các thụ
tạo trong liên hệ đa dạng của chúng. Người ta có thể hiểu sự
quan trọng và ý nghĩa của từng thụ tạo tốt hơn, khi nhìn vào toàn
thể trong chương trình của Thiên Chúa. Sách Giáo lý dạy : “Sự liên hệ
lẫn nhau của các thụ tạo là do ý muốn của Thiên Chúa. Mặt trời và
mặt trăng, cây sến và bông hoa ngoài đồng, phượng hoàng và chim se sẻ
– cảnh thiên hình vạn trạng và không đồng đều nói lên rằng không thụ
tạo nào được đầy đủ nơi bản thân mình, chúng chỉ hiện hữu trong sự
lệ thuộc lẫn nhau, để bổ túc cho nhau trong việc phục vụ lẫn nhau”.[22]
Đức
Giáo Hoàng Phanxicô còn cho thấy sự liên hệ thân thiết giữa con người và thiên
nhiên. Trái đất vừa là mẹ vừa là chị của chúng ta, luôn đón tiếp chúng ta với
cánh tay rộng mở. Nhưng, người chị này đang kêu cứu vì chính chúng ta đang gây
nên những tàn phá khủng khiếp[23].
Trái đất đang oằn mình gánh chịu biết bao hành động phá hoại của con người. Mẹ
thiên nhiên đang lên tiếng kêu cứu trước sự vô cảm của con người đối với môi
trường sống. Do sự vô trách nhiệm của con người, “trái đất, ngôi nhà chung
của chúng ta, đang nhanh chóng biến đổi thành một bãi rác”[24].
Thiên nhiên là một quà tặng yêu
thương đến từ Thiên Chúa. Do đó, con người cần đón nhận với lòng biết ơn và sử
dụng chúng sao cho phù hợp với thánh ý Chúa. Thiên nhiên và con người tạo nên
một mối dây hiệp thông trong vũ trụ. Tương
tác qua lại này cần dựa trên sự tôn trọng. Thiên nhiên là môi trường con
người sinh sống, làm việc và phát triển; vì thế, con người không thể dửng dưng
hay thờ ơ với việc bảo vệ thiên nhiên vì lẽ “tất cả chúng ta đều có thể
cộng tác như những khí cụ của Thiên Chúa để bảo vệ công trình sáng tạo, mỗi
người tùy theo văn hoá, kinh nghiệm, sáng kiến và khả năng của mình”[25].
Đức Thánh Cha Phanxicô thật có lý
khi nhấn mạnh việc thiên nhiên vũ trụ này cùng với con người tiến bước về Nước
Thiên Chúa nhờ Đức Kitô:
Mục đích của chuyển động vũ trụ
nằm trong sự phong phú của Thiên Chúa, đạt được qua Đấng Kitô phục
sinh – điểm mấu chốt tiến trình trưởng thành của vũ trụ. Chúng ta
cũng đưa thêm một lý luận để phủ nhận quyền chuyên chế và vô trách
nhiệm của con người trên các thụ tạo khác. Mục đích cuối cùng của
những thụ tạo khác không phải là chúng ta. Nhưng chúng cùng đồng hành
với chúng ta và qua chúng ta cùng tiến về một mục đích chung là
chính Thiên Chúa, trong một sự tràn đầy siêu vượt, nơi Đấng Kitô phục
sinh ôm lấy và chiếu sáng cho tất cả. Vì con người, dù được ban cho
lý trí và tình yêu, cũng được lôi kéo vào sự phong phú của Đức
Kitô, được kêu gọi để tất cả thụ tạo trở về với Đấng Sáng Tạo của
mình.[26]
Kết luận
Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ cho tất cả
muôn loài muôn vật. Thiên nhiên và con người đạt được cứu cánh đích thực của
mình nhờ liên kết với Đức Kitô. Thánh Phaolô viết:
Mỗi
người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm,
thì đến lượt những kẻ thuộc về Người; sau đó, mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã
tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao lại
vương quyền cho Thiên Chúa là Cha [...] Lúc muôn loài đều qui phục Đức Kitô,
thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ qui phục Đấng bắt muôn loài phải qui phục
Người, và như vậy Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.[27]
Công trình sáng tạo của Thiên Chúa diễn
tả quyền năng và tình yêu của Người. Từ việc nhận ra vẻ đẹp trong công trình
sáng tạo này, con người hướng lòng trí về thực tại tối hậu và siêu việt là
Thiên Chúa. Thiên nhiên là ngôi nhà chung của nhân loại và là món quà Thiên
Chúa ban tặng cho con người. Vũ trụ thiên nhiên này là nơi gặp gỡ giữa Thiên
Chúa và con người. Đức Giêsu đã đến trong trần gian, và thánh Gioan nhấn mạnh
là “Ngài đã đến nhà mình” (Ga 1,11).
Đức Giêsu là khuôn mẫu chuẩn mực cho con người trong cách sống hòa hợp, gần gũi
với thiên nhiên. Như thế, ơn cứu độ đã được thực hiện trong chính môi trường
thiên nhiên mà con người sinh sống và làm việc. Vì thế, thay vì sử dụng và khai
thác một cách quá mức khiến cạn kiệt nguồn tài nguyên, con người cần phải bảo
tồn, gìn giữ, phát triển và làm cho món quà này của Thiên Chúa thêm tươi đẹp
hơn. Thiên nhiên, cùng với con người, cần làm sáng lên vẻ đẹp của Thiên Chúa
qua việc sống hài hòa và tương trợ lẫn nhau. Đó chính là điều phù hợp với thánh
ý Thiên Chúa trong ý định sáng tạo tốt lành của Người.
[1] Thánh Augustin, bài giảng 241,2; trích lại ở GLHTCG số 32.
[2] Dz 150.
[3] Thánh thi Veni Creator Spiritus vẫn được hát trong
Chúa nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
[4] Thánh
Irênê, Chống lạc giáo Adversus
haereses, 2, 30, 9: SC 294, 318-320 (PG 7, 822).
[5] Ibid, số
293-294.
[6] Ibid, số
293; Dz 3002.
[7] Ludgg OTT, Grundriss der Katholischen Dogmatik,
Siebte Verbessert Auflage, Herder, 1965 (bản dịch Việt ngữ Lm. Augustinô Nguyễn
Văn Trinh, Tín Lý I, Đại Chủng viện
thánh Giuse, 2003, trang 182-183).
[8] GLHTCG, số
33.
[9] Thánh
Augustin, bài giảng 241,2; trích lại ở GLHTCG số 32.
[10] Xc. ĐGH
Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số
1.
[11] Ibid, số
66.
[12] CĐ Vaticanô
II, Hiến chế Mục Vụ Gaudium et Spes,
số 36.
[13] GLHTCG, số
301.
[14] Ibid, số
339
[15] ĐGH
Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số
84.
[16] ĐGH
Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số
89.
[17] Ibid, số
82.
[18] GLHTCG, số
258.
[19] Thánh
Phanxicô thành Assisi, “Bài ca thụ tạo”, Sources
Chrétiennes, số 258 (trích dẫn ở ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số 87).
[20] ĐGH
Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số
79.
[22] ĐGH
Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số
86.
[23] Xc. Ibid,
số 1.
[24] Ibid, số
21.
[25] ĐGH
Phanxicô, Thông điệp Laudato sí, số
14.
[26] Ibid, số
83.
[27] 1 Cr
15,23-24.28
Đăng nhận xét