Tình thương và sự sống thuần khiết

Chỉ có một sự sống tinh tuyền, thật tinh tuyền
nơi Đức Giêsu Phục Sinh, mới có thể "phục sinh"
sự sống đích thực cho nhân loại. Đức Giêsu Phục Sinh "thổi" Thánh Thần Sáng Tạo trên cộng đoàn các môn đệ
và các Kitô hữu đầu tiên,
chuyển thông sự sống của Thiên Chúa cho con người.
Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP.
1. Thế giới ngược ngạo
Thế giới hiện đại quả thật quá văn minh. Những thành tựu về nhiều khía cạnh, chẳng những về khoa học, về kỹ thuật, về kinh tế; và cả những tiến bộ về văn hóa hoặc nhiều giá trị nhân bản được sáng tỏ hơn rất nhiều... là những điều khó có thể phủ nhận.
Tuy nhiên, điều ngược ngạo là thế giới văn minh hiện đại ấy càng ngày càng rối rắm do tính chất quá tế vi của sự sống nói chung và sự sống của con người nói riêng, khiến cho những tiến triển về phương diện này lại luôn kéo theo những tai họa về phương diện khác. Ở thế kỷ XVIII và XIX, văn minh Tây phương đã hào hứng bao nhiêu, lạc quan bao nhiêu về năng lực con người, về những thành tựu rực rỡ mà con người đã đạt được và như chắc chắn sẽ đạt được, thì đến giữa thế kỷ XX và sang đến thế kỷ XXI này, con người lại rơi vào tình cảnh rối rắm bấy nhiêu. Chính những điều tưởng như thành tựu lại hé mở vực thẳm trong lòng của nó. Những mô hình xã hội lý tưởng nhất đã sụp đổ, những cơ cấu kinh tế phát triển vẫn không giải thoát nhiều người khỏi cảnh nghèo đói, những phương tiện khoa học kỹ thuật phong phú lại làm con người đánh mất những tương quan lành mạnh ...
Những nét ngược ngạo của thế giới hiện đại không phải là những thách đố bình thường của qui luật phát triển; cũng không phải chỉ là những khó khăn trên ngọn mà con người gặp phải trên hành trình văn minh hóa, nhưng chính là những dấu hiệu của một sự rạn vỡ ở nền tảng, những dấu hiệu cho thấy một sự trật hướng trên hành trình phát triển... Điều nguy hiểm là những lệch lạc ấy đã hình thành nên những cấu trúc, trở thành một bộ máy khổng lồ, vận hành như một chế độ "độc tài của máy móc", có thể gọi được là thứ "lỗi cơ chế", mà những nỗ lực của cả nhân loại cũng khó có thể sửa chữa được. Do đó, biết bao cá nhân bị lôi kéo, xô đẩy, dun dủi và hoàn toàn không thể chống cưỡng được.
1.1. Khủng hoảng môi sinh
Biến cố cá chết ở miền Trung và ở nhiều nơi trong đất nước, những hiện tượng lũ lụt, lũ quét do việc tàn phá rừng, khai thác khoáng sản bừa bãi,... là một lời cảnh báo lớn cho người Việt Nam. Thực phẩm bẩn cùng sự hao mòn lương tâm của lòng người lại đang đi vào từng ngõ ngách của đời sống và đi vào từng mạch máu của người dân Việt Nam ...
Hơn nữa, đây không phải chỉ là vấn đề ở Việt Nam, nhưng là vấn đề toàn cầu : không gian vũ trụ đầy những rác, ở những vùng bắc cực và nam cực đầy những rác, các vùng sa mạc đang lớn dần, xâm hại đến các khu dân cư, những nước nghèo khổ ở Châu phi bị khai thác vô tội vạ, các thứ bệnh HIV, ZIKA, cúm gà, heo tai xanh, bò điên.... Ô nhiễm đi đến những gì phổ biến nhất, cần thiết nhất, gần gũi nhất với con người : bầu khí quyển, nước, mất cân bằng sinh thái giữa con người với thiên nhiên, an toàn thực phẩm... Ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp và bi đát đến những quốc gia nghèo nhất và những người nghèo nhất,...
Từ năm 1971, Đức Phaolô VI, trong thông điệp Pacem in Terris, đã bắt đầu nói tới "hậu quả bi thảm" do những hoạt động không kiểm soát của con người đối với môi sinh : "Do một sự khai thác thiên nhiên thiếu suy xét kỹ lưỡng, nhân loại rơi vào nguy cơ hủy diệt thiên nhiên và đến lượt con người lại trở nên nạn nhân của tình trạng xuống cấp này."[1]
Cho đến nay, con đường đổ dốc tới thảm họa bi đát ấy vẫn không chậm lại, bởi vì căn nguyên sâu xa của nó lại không phải ở chính thảm họa môi sinh mà phát nguyên từ khủng hoảng xã hội, từ sự lệch lạc của chính con người và những mẫu thức của nền văn minh hiện đại.
Đức Phanxicô, trong thông điệp Laudato si, số 139 nói:
Chúng ta đang đối diện không phải với hai cuộc khủng hoảng riêng biệt, một bên là cuộc khủng hoảng về môi trường, một bên là cuộc khủng hoảng xã hội, nhưng là một cuộc khủng hoảng phức tạp bao trùm cả xã hội lẫn môi trường. Các chiến lược giải quyết đòi hỏi một lối tiếp cận toàn diện để chiến đấu chống nghèo đói, trả lại phẩm giá cho những người bị loại trừ khỏi xã hội, và đồng thời bảo vệ thiên nhiên.
1.2. Khủng hoảng xã hội
Thế giới hiện đại đã cho thấy bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, nhưng phải chăng chính những bước tiến ấy có hàm chứa hiểm nguy, hiểm nguy của một nền văn minh chống lại tình thương và nhiễm độc sự sống của con người?
Thế kỷ XXI là sự bủng nổ của khủng bố cùng với sự bất ổn trong tương quan của các quốc gia trong vấn đề Biển đông, Trung đông... Trong hai tháng qua, những vụ xả súng, nổ bom kinh hoàng đã xẩy ra với tần số dầy đặc. Người ta có thể thấy rõ nguyên nhân trước mắt là tư tưởng của phong trào Hồi giáo cực đoan hoặc chủ nghĩa Hán hóa quá khích,... nhưng ở tầng sâu của vấn đề chắc chắn còn phức tạp hơn rất nhiều. Hình như, trong tổng thể, mỗi quốc gia, mỗi tổ chức đều vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Trong những tai họa do khủng bố gây ra, có dấu vết của chính những lỗi lầm quá khứ của đất nước bị khủng bố; trong những cuộc nổi loạn đều có chất kích thích từ những cơ chế bất công ... Hình như không lúc nào qui luật sòng phẳng "gây ông đập lưng ông" lại biểu hiện rõ rệt như thế giới hiện đại của chúng ta. Đồng thời, một thứ "quy luật" đau thương khác cũng biểu hiện rõ rệt, "trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết". Rất nhiều những người "thấp cổ bé miệng" phải chịu cảnh đau thương do tham vọng của những quốc gia, những tổ chức và cả những tôn giáo. 
ững





Quả thật, có nhiều thứ trên bề mặt diễn tiến theo quy luật "cứt trâu hóa bùn", nhưng chính sự ác thì không phải như vậy. Sự ác là thứ men, thứ mầm độc hại, càng để lâu càng đè nén một sức mạnh tàn phá lớn. Sự ác có khả năng ẩn nấp, biến thái, lây lan ghê gớm hơn mọi thứ độc hại khác. Cũng vậy, những mất mát đau thương của những người bé mọn cũng không thể tàn phai theo năm tháng, nhưng được "tồn trữ" để mỗi ngày lại trở nên một sức mạnh có khả khơi dậy những mầm móng của sự thiện.
Những tai họa của nhân loại trong những năm đầu tiên của thế kỷ XXI này cho thấy có một sự lầm lạc trong cấu trúc tổng thể của thế giới. Đức Gioan Phaolo II nói :
Thời đại chúng ta có thể là một thời kỳ mà người ta đã nói và đã viết nhiều nhất về con người, là thời kỳ của chủ thuyết Duy Nhân bản và của chủ thuyết Qui Nhân Luận. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ của bao nghịch lý, trong đó con người phải triền miên sống trong lo âu sợ hãi cũng như phải đối mặt với nhiều vấn nạn đầy khắc khoải về bản sắc và định mệnh của mình, lời một thời kỳ con người bị hạ thấp tới bùn đen không thể tưởng tượng trước được, là một thời kỳ các giá trị nhân bản bị khinh rẻ và bị xúc phạm như chưa từng xảy ra. Vậy làm thế nào để giải thích được sự mâu thuẫn đó ? Người ta có thể nói được rằng đây là một sự mâu thuẫn tàn nhẫn, tự đồng hóa với chủ thuyết Duy nhân bản vô thần, đã hiện hình. Đó là thảm cảnh của con người mà chiều kích cơ bản sự hiện hữu của nó đã bị cắt xén chiều kích hướng về Tuyệt Đối.[2]
Những điều đó dẫn tới tình trạng khủng hoảng văn hóa chưa từng có trước đây, như lời đức Gioan Phaolô II nói :
Ngày nay, chúng ta  đáng phải trải qua một cơn khủng hoảng văn hóa trong mức độ chưa từng có. Dĩ nhiên nền văn hóa hôm nay chứa đựng nhiều giá trị rất tích cực mà phần lớn là do sự Phúc Âm hóa mang lại; nhưng đồng thời nó cũng đã gạt bỏ những giá trị tôn giáo nền tảng và thu nhập những quan điểm trái ngược với niềm xác tín Kitô giáo.[3]
Những điều được đức Gioan Phaolô nói từ năm 1979, giờ đây cũng được đức Phanxicô nhắc lại trong thông điệp Laudato si :
Chủ thuyết hiện đại con người là trung tâm có kết cục thật nghịch lý khi đề cao tư tưởng kỹ thuật trên thực tại (...). Thời hiện đại mang dấu ấn của chủ thuyết đặt con người làm trung tâm thái quá đến nỗi ngày nay đang tiếp tục phá hoại bất kỳ con đường nào của sự hiểu biết chung và những nỗ lực nhằm củng cố mối dây liên kết xã hội ...[4]
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng môi sinh bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng xã hội. Cuộc khủng hoảng xã hội, ở nền tảng, mang dáng dấp của một bộ máy kỹ thuật phi nhân, vận hành một cách lạnh lùng và tàn bạo. Một khi cuộc khủng hoảng môi sinh đã trở nên trầm trọng, có đủ tầm mức dài rộng để quay ngược chống lại chính tác nhân đã tạo ra nó, thì chúng ta đang chứng kiến một vòng tuần hoàn trói buộc chặt chẽ tự do của con người, một dòng chảy thừa sức bóp nghẹt những nỗ lực lẻ tẻ của luân lý cá nhân. Ở đây, độc chất trong cuộc khủng hoảng xã hội và môi sinh đã thấm nhiễm tới những gì nhỏ bé, bình thường, quen thuộc nhất của cuộc sống nhân sinh.
Trình thuật cám dỗ trong sa mạc cho chúng ta thấy sự quỉ quái của satan. Satan không cám dỗ bằng những điều tội lỗi xấu xa, nhưng khởi đầu bằng những điều nhỏ bé và những gì có vẻ "tự nhiên". Thật ra, cái ác đã "tu luyện" đã biến hóa mà không còn mang dáng dấp của ác nữa. Người ta có thể tìm thấy nhiều khuôn mặt mới của cái ác, cái ác có thể nhân danh cái thiện, cái ác mê hoặc như một phương cách thực tế, cái ác có được miệng lưỡi đầy lý lẽ, cái ác để đạt được lợi ích chung ...

2. Thử truy tìm nguyên nhân

2.1 Đánh mất ý nghĩa chân thật của con người và vũ trụ
Chúng ta đã quá quen với những lý lẽ tố cáo chủ nghĩa vô thần, tố cáo một thế giới bỏ Chúa, đánh mất chiều kích siêu việt... Tuy vậy, hình như những điều ấy dễ trở thành sáo ngữ hoặc trở thành công thức được nói theo thói quen. Đức Gioan Phaolô II, trong bản di chúc tinh thần "Ký Ức và Căn Tính", đã phân tích một cách rõ ràng, cho ta thấy những căn nguyên và hệ quả của cuộc khủng hoảng thế giới hiện đại chính, khi đánh mất quan điểm triết học đúng đắn của Kitô giáo về hữu thể và do đó mà đánh mất triết lý về sự ác.
Ở thời kỳ trước Descartes, triết học, và cogito, hay đúng hơn cognosco (tôi biết), bị tùy thuộc vào esse (hữu thể), nó được xem như cái gì đó trên hết. Đối với Descartes, trái lại, esse - hiện hữu - tỏ ra là thứ yếu, trong khi ông đánh giá cogito mới ở hàng đầu. Như thế, không chỉ người ta thực hiện sự thay đổi chiều hướng trong cách thức làm triết học, nhưng người ta còn kiên quyết bỏ đi cái mà triết học đã là cho đến lúc đó, cách riêng triết học của thánh Tôma Aquinô : Triết học về hữu thể – esse. Trước đây, mọi sự được diễn dịch trongviễn tượng của esse và ta tìm kiếm sự giải thích của mọi sự theo viễn tượng này. Thiên Chúa như Hữu Thể có khả năng tự túc đầy đủ nhất (ens subsistens) được xem như sự trợ giúp không thể thiếu cho mọi ens non subsistens, cho mọi ens participatum, tức là cho mọi hữu thể tạo dựng nên, và cũng vậy cho con người. “Cogito, ergo sum” mang nơi nó sự cắt đứt với dòng tư tưởng. Ens cogitans (hữu thể suy tư) từ này trở nên hàng đầu. Sau Descartes, triết học trở thành một khoa học của tư tưởng thuần túy (science de la pure pensée) : tất cả cái gì là esse – thế giới được tạo thành này cũng như Đấng Tạo dựng – đều định vị trên trường của cogito, với tư cách là nội dung của ý thức con người. Triết học nắm giữ các hữu thể như những nội dung của ý thức, và không phải như những hiện hữu bên ngoài nó.[5]
Khi mà ý nghĩa căn bản của hữu thể, tức bản chất thật sự của thế giới, của mỗi sự vật trong thế giới này không còn được tôn trọng, hoặc bị hiểu cách sai lạc, thì tất cả những gì tỏ lộ của hữu thể cũng bị lầm lạc. Một cách chung, ta có thể thấy, một khi con người không còn điểm quy chiếu và Thiên Chúa thì cũng đánh mất "địa tầng chân thiện mỹ" nơi mỗi sự vật. Khi đó con người chỉ còn mối tương quan "tay đôi", con người với nhau và con người với thế giới. Chính mối tương quan mang tính chiếm hữu, khai thác hoặc cạnh tranh giữa con người với nhau và con người với thế giới đã đưa đến bao nhiêu hệ quả đau thương cho thế giới hiện đại.
Khi người ta chỉ còn thấy vũ trụ như khu mỏ để mình khai thác, thì mọi ý nghĩa, mọi phẩm tính sâu xa của vũ trụ đều tan biến. Khi người ta chỉ thấy mình trong tấm gương so sánh với người khác, tất nhiên con người chỉ còn có nỗ lực cạnh tranh hơn thua.
Hegel cho thấy thế giới con người với nhau diễn ra trong một cuộc cạnh tranh chủ nô. Cuộc cạnh tranh ấy đưa đến chỉ có một người được quyền sống có ý nghĩa, người chủ; và người kia buộc phải rơi xuống tình trạng nô lệ. Khi thế giới chỉ có "hai người", chỉ có cuộc chơi tay đôi, con người thật không dễ dàng có thể trở nên anh em; mà chỉ có thể là cuộc chiến. Không có "cha/mẹ", như khung trời bao la, làm sao con người có thể có được chân trời để có thể tôn trọng tha nhân như "anh em" ?
Thế giới cạnh tranh đưa đến việc phát triển bản lĩnh đối phó, tạo nên những "chiến lược gia", thế giới nhân loại không còn là nỗ lực "đánh cái gì vì ai", nhưng biến chất thành cuộc chiến "đánh ai vì cái gì". Quả thật, càng đi vào cuộc cạnh tranh hơn thua, người ta càng có tư tưởng hẹp hòi và gian dối. Giống như khi một quốc gia đặt tất cả ý nghĩa của mình vào mục tiêu chính trị, thì mọi mưu mẹo, mọi phương cách gian dối, lừa đảo, độc ác đều có thể trở nên được phép, mục đích biện minh cho phương tiện ... Trong bầu không khí ấy, chỉ những kẻ có bản lãnh cạnh tranh mới có thể tồn tại và vươn lên.
Khi đó, con người không còn biết trân trọng, không còn biết lắng nghe, không còn biết chiêm ngắm, tức là những thái độ tin tưởng có một giá trị nền tảng vượt quá năng lực sáng tạo, vượt quá khả năng lý giải của con người. Khi đó, người ta giản lược sự thật, cùng cả giá trị thiện ác vào hệ quả lịch sử, theo kiểu "thắng làm vua, thua làm giặc".
Khi thế giới con người không có một chuẩn mực nào khác, không có Thượng Đế mà cũng không có những giá trị siêu hình của bản chất thế giới, con người không còn có thể mở lòng để chiêm ngắm "logos" như phản ảnh của Thượng Đế trong vũ trụ và trong con người.
2.2. “Phòng khám” và “phòng thi”
Từ những suy tư triết học, chúng ta có thể trở về với những hình ảnh cụ thể cho thấy căn nguyên những cuộc khủng hoảng của thế giới hiện đại: lầm lẫn giữa "phòng khám" và "phòng thi".
Con người dường như là một sinh vật không bao giờ có thể chấp nhận được cái hiện có của bản thân mình. Khát vọng vươn lên là khát vọng "thâm căn cố đế" trong bản chất người ... Chính vì thế, thế giới con người vẫn không ngừng phát triển và phát triển ngày một mạnh mẽ hơn ... Mặc dù vẫn có khuynh hướng "minh triết" muốn khuyên nhủ con người nên tự an ổn với những gì mình đang có, "khéo ăn thì no, khéo co thì ấm"; nhưng tự trong bản chất người, khát vọng vươn lên và vươn lên mãi, vẫn luôn là điều không thể bị tiêu diệt ... Chính khát vọng ấy dần dần đưa thế giới này vào sự đảo ngược lớn, sự đảo ngược giữa "phòng thi" và "phòng khám".
Thế giới có nhiều thứ phòng ban. Nhưng ta cũng có thể phác họa bức tranh thế giới trong hai thứ phòng : phòng thi và phòng khám. Phòng thi thì tìm kiếm "nửa trên" của nhân loại. Thi sát hạch là cuộc thi lọc lựa những người trên điểm trung bình, đương nhiên cũng là gạt bỏ những thành phần yếu kém dưới trung bình. Cuộc thi tuyển lại còn cao cấp hơn nữa, thi tuyển là chọn những con người ưu tú nhất từ trên xuống mà cả nhiều người trên trung bình, hoặc ưu tú vừa phải cũng phải chịu số phận thi rớt. Nơi phòng thi, mỗi người phải tự mình khẳng định mình, và đảm nhận trách nhiệm về đời mình. Phòng thi đưa xã hội vào trật tự có tính thuyết phục, mỗi người phải ở đúng vị trí của mình, theo đúng như tài năng của mình. Phòng thi khẳng định một sự công bằng, đưa tới xã hội phân công hợp lý.
Dĩ nhiên phòng thi bao giờ cũng cần thiết cho sự phát triển xã hội. Nhưng phòng thi cũng chính là nơi nuôi dưỡng ý thức cạnh tranh. Không thể chối rằng cạnh tranh là một động lực lớn để phát triển xã hội; nhưng cạnh tranh cũng là phương thức làm toán cuộc đời, làm toán trên số phận con người. Phòng thi đưa con người vào tình thế bắt buộc phải dấu đi cái dốt của mình, phải che mắt được giám khảo về khiếm khuyết của mình. Phòng thi xô đẩy con người vào nguy cơ phạm tội, nếu không phải là tội gian dối thì cũng thường lại là tội giả hình; phòng thi hợp lý hóa sự bất bình đẳng trong cuộc đời ...
Trong khi đó, phòng khám thì ôm lấy "nửa dưới" của nhân loại. Những người đến phòng khám là những người ít nhiều đã lãnh đủ đòn thù bầm dập của cuộc đời. Phòng khám là nơi gặp gỡ của những người đau yếu, những người kém cỏi, những người thất bại trong phòng thi. Những con người ấy cần tới người khác, cần được hiểu cho bệnh tình riêng biệt của mình. Nơi phòng khám, điều bí ẩn nhất cũng cần được bộc lộ, nơi kín đáo nhất cũng cần được mở ra, những triệu chứng phức tạp nhất cần được trân trọng xem xét. Phòng khám là nơi câu chuyện đời được chia sẻ trong lòng khao khát được hiểu, được đón nhận được cảm thông.
Nếu phòng thi là nơi cần thiết cho sự phát triển xã hội, thì phòng khám lại là nơi cần thiết cho con người được là người chân thật. Con người vốn là sinh vật có bệnh và người sống thật nhất là người dám sống với khuyết điểm của mình. Tự đáy tâm hồn, con người khát khao được sống trong phòng khám; nhưng bài toán xã hội lại bắt con người luôn phải bước vào phòng thi.
Xã hội con người chẳng bao giờ bỏ và cũng không nên bỏ phòng thi, nhưng đặt tất cả vận hành của thế giới con người vào cuộc thi, thì đó lại là một nguy cơ lớn. Ngược lại, điều đúng đắn hơn chính là, phòng thi thì cứ thi, nhưng trước cuộc thi, ngoài phòng thi, và sau cuộc thi, thế giới phải là phòng khám. Không phải ở phòng thi, nhưng là ở phòng khám mà người ta nhận ra được tình thương đẹp của con người với nhau, tình thương nâng đỡ từ chân để mọi người tìm được chỗ đứng thỏa lòng, cho dù là năng lực và đức độ không bằng ai.
Đức Giêsu tuyên bố : "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5,31-32). Sứ mệnh chính yếu của đức Giêsu là thực hiện điều đã được tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia : "Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta". (Mt 8,17)
Sự so sánh hơn thua, nỗi lo không được đón nhận ... đã biến thế giới này thành một phòng thi khắc nghiệt : môn thi tài năng, môn thi địa vị, môn thi sắc đẹp ..., và môn khắc nghiệt nhất là môn thi nhân cách ... Con người dường như không thể bỏ đi bệnh "làm toán". Con người muốn chấm điểm bản thân mình và chấm điểm người khác, thứ chấm điểm chẳng bao giờ công bằng; vì người ta luôn rơi vào tình trạng nhân cách yếu : khoan dung cho mình mà lại đòi hỏi người khác. Khi người ta được lợi trong bài toán bất công, người ta muốn cuộc đời là một phòng thi. Đó là thái độ của người giầu, người ưu tuyển. Chỉ khi người ta rơi vào tình trạng bất lợi, bị vùi dập, bị chà đạp, bị loại bỏ ... thì người ta mới dễ nhận ra nỗi khao khát về một "phòng khám bệnh trong cuộc đời"... Đây lại là tâm tình sâu xa của những thân phận nghèo.
Trong một thế giới đảo ngược, người ta đánh mất hệ qui chiếu nền tảng, và người ta sẽ giải quyết mọi sự cách tùy tiện, ngẫu hứng hoặc theo kiểu vô trách nhiệm.

3. Nền Văn Minh của Tin mừng

Nền văn minh sự sống và tình thương cần có một nền tảng; mà nền tảng ấy không chỉ là tình cảm, bấp bênh, cũng không chỉ là tư cách hành xử khuôn phép, nhưng thiết yếu là một "thực tại" căn nguyên, một thực tại có khả năng soi chiếu chân lý của cuộc sống. Nền văn minh ấy được ươm mầm trong một sự sống tinh tuyền, triển nở như một tình yêu thuần khiết. Thứ sự sống tinh tuyền và tình yêu thuần khiết ấy chỉ có nơi chính sự sống và tình yêu của Thiên Chúa, và chỉ có thể được ban tặng trong một Đấng là Đức Giêsu Kitô.
Kitô giáo, tự bản chất, không đặt nền trên một tư tưởng, không phải là một tư tưởng có khả năng khai trí, giác ngộ, cũng không phải là đạo luân lý, nhằm đưa ra những mẫu mực luân lý cao vời. Kitô giáo thiết yếu đặt nền trên thực tại, được diễn tả qua những biến cố và sự kiện. Tuy vậy, biến cố và sự kiện Kitô giáo không phải là những điều ngẫu nhiên, mà là những điều có khả năng khai mở chân trời siêu việt.
Kitô giáo đặt nền tảng trên thực tại và đó là một sự thật "khách quan". Tuy nhiên, quan điểm sự thật "khách quan" của Kitô cũng khác với quan điểm của văn hóa Hy Lạp. Người Hy Lạp tìm bản chất "chân thiện mỹ" của thế giới, theo đó, chân lý ngược với sai lầm. Trong khi  truyền thống Do Thái Kitô giáo lại tìm sự thật như sự trung tín, trung tín với Đấng là cội nguồn của tất cả vũ trụ. Do đó, điều trái với chân lý chính là sự bất trung. Nơi đây, bản chất "chân thiện mỹ" của thế giới chỉ có thể đạt được ý nghĩa trọn vẹn và được thu họp vào ơn cứu độ khi trở nên dấu chỉ của Đấng Tạo Thành và là nơi diễn ra "câu chuyện tình" chứ không phải là bài giải "toán học". Thái độ đi tìm chân lý trong truyền thống này luôn mở ra với cội nguồn uyên nguyên của toàn bộ vũ trụ và luôn luôn đặt nền trên mối tương quan ngã vị. Kitô giáo, tự căn tính, là thái độ "sống với ai" chứ không phải "sống thế nào". Kitô giáo cũng hàm chứa một khẳng định về giá trị ưu tiên của ngã vị trên tất cả mọi trật tự cũng như mọi sự phát triển "phi nhân". "Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát". (Mc 2,27).
3.1. Sự sống tinh tuyền
Đức Giêsu Phục Sinh chính là nguồn cội của sự sống mới. Từ bầu khí căn phòng đóng kín của các môn đệ của đức Giêsu cho đến bầu khí của Giáo hội sơ khai ta thấy có một sự biến chuyển quá rõ ràng. Từ căn phòng "các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do Thái" (Ga 20,19) cho đến thái độ "đơn sơ vui vẻ" (Cv 2,46) của các tín hữu thời sơ khai, rõ ràng có một sức sống hoàn toàn mới, sức sống của Đức Giêsu Phục Sinh, và sức sống của cuộc sáng tạo mới trong Thánh Thần mà đức Giêsu Phục Sinh đã "thổi" trên các môn đệ : "Người thổi hơi vào các ông và bảo : anh em hãy nhận lấy Thánh Thần ..." (Ga 20,22)
Sự đổi mới kỳ diệu ấy, trước tiên, có thể cho thấy rõ hơn đường lối mặc khải của Thiên Chúa. Suốt dòng lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ bày chính mình như một sự ẩn dấu, Ngài mặc khải quyền năng và tình yêu của Ngài như một "Đấng Hoàn Toàn Khác" với vũ trụ và thế giới con người, Ngài tỏ bày chính Ngài trong những sự vật tầm thường và những con người yếu đuối, Ngài tỏ bày, nhưng con người lại không bao giờ có khả năng thấu triệt được chính bản thân của Ngài ... Do đó, mầu nhiệm tỏ bày của Thiên Chúa vẫn luôn hàm chứa phần ẩn dấu; bầu khí chung của đạo mạc khải vẫn luôn mang dáng vẻ "lung linh".
Quả thật, trong nhiều nơi nhiều lúc Thiên Chúa tự mặc khải chính Ngài, sự kiện Giáo hội được khai sinh nơi những con người tầm thường, được sống còn trước bao nhiêu thử thách, được lớn lên một cách kỳ diệu qua bao thăng trầm, ... là một dấu chỉ đặc biệt về quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Chẳng ai có thể làm cho một nhóm những con người nhát đảm như các môn đệ sau cái chết của đức Giêsu, lại có thể gây dựng được một cộng đồng đầy sức sống, hiệp nhất với Chúa và nhau ... đến độ chấp nhận "bán đất đai tài sản" (Cv 2,45) của mình ...  Chẳng ai có thể tin được những người quê mùa và yếu đuối như các tông đồ lại có thể là nền móng cho Giáo hội; chẳng ai dám tin một tập thể yếu ớt, lỏng lẻo, manh mún ... như Giáo hội trong thực tế, lại có thể vượt qua bao nhiêu thách đố hiểm nguy để tồn tại cho đến hôm nay ... Sự hiện diện và sự sống của Giáo hội là một huyền nhiệm làm chứng cho quyền năng Phục Sinh của đức Giêsu Kitô qua suốt dòng lịch sử.
Sự sống của đức Giêsu trong quyền năng cuộc sáng tạo mới của Thánh Thần cũng tỏ lộ trong sự qui tụ, hiệp nhất và phong phú. Từ một cộng đoàn các môn đệ bắt đầu tan rã thì sự sống mới qui tụ lại, như trong trường hợp hai môn đệ trên đường Emmaus; từ sự chia rẽ của các môn đệ giữa Tôma và các môn đệ khác lại đã được củng cố vững vàng hơn trong đức Tin, như trong trình thuật Tin mừng hôm nay; và sự sống của đức Giêsu tỏ bày trong sức sống phong phú nơi cộng đoàn các tín hữu sơ khai. "Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ" (Cv 2,47)
Sự sống chân chính không phải như một mãnh lực mù quáng, không phải là một phương thức đối đầu, không phải như một sự trả thù; không phải là một sức mạnh tàn phá ... mà là một sự sống chân chính, âm thầm lớn mạnh, kiên trì trước mọi thử thách, như một sự "trưởng thành" đích thực của một sự sống đích thực.
Sự sống mới nơi Đức Giêsu thật sự tinh tuyền, không mang một chút phẩm tính sự chết. Sự sống ấy có thể bị đe dọa và bách hại nhưng không đe dọa và bách hại ai, trừ ra là những người "thần hồn nát thần tính". Ngược lại, chính cái chết của những Kitô hữu đầu tiên lại còn trở nên chứng tá rõ rệt hơn của sự sống không gì có thể tiêu diệt được.
Các môn đệ của Đức Giêsu vẫn mãi mong manh; cộng đoàn các Kitô hữu vẫn mãi nhỏ bé, nhưng sự sống của Chúa lại tỏ lộ trọn vẹn trong sự mong manh nhỏ bé. Quả thật, mỗi người, hoặc một số người, Kitô hữu vẫn có thể yếu đuối, vẫn có thể nhát đảm, vẫn có thể chối từ đức tin và bị vùi dập trong bóng ma của sự chết, nhưng sự sống của Đức Giêsu nơi cuộc sáng tạo mới của Thánh Thần thì vẫn không bao giờ có thể bị phá hủy.
3.2. Tình yêu thuần khiết và phong phú
Nếu mến Chúa và yêu người là điều tóm lại tất cả giáo huấn của Luật Môsê và các sách ngôn sứ (Mt 22,40); và nếu có thể “định nghĩa” “Thiên Chúa là Tình yêu” và “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7.8) như thánh Gioan, thì quả thật, chính tình yêu là trung tâm và là tất cả, tình yêu cứu độ và tình yêu “xét xử”, tình yêu soi sáng và tình yêu dẫn dắt hành động, tình yêu đòi sám hối và tình yêu thưởng công bội hậu … Đó là thứ tình yêu vừa là nguyên lý, vừa là phương thức hành động và vừa là cứu cánh; đó là thứ tình yêu thuần khiết, không pha tạp tính toán, không pha tạp hận thù, không pha tạp tính cục bộ …; không phải là thứ tình yêu nửa vời, giới hạn, loại trừ; không phải là yêu đến giới hạn nào đó rồi biến chất thành trừng phạt; không phải là thứ tình yêu hạn hẹp, đã yêu người này thì ghét người kia; không phải là thứ tình yêu ngẫu hứng, thích thì yêu rồi bỗng không thích thì thôi …
Chúa có giận thì cũng là một thứ tình yêu nồng nàn vì: “Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 30,6). Chúa có chọn Dân riêng và có những người được yêu thương đặc biệt thì đó cũng là để những ai được đón nhận tình yêu cách đặc biệt thì có trách nhiệm làm chứng cho muôn người về tình yêu của Ngài; Chúa có ngừng ban ân huệ cho ai thì cũng là để cho ai đó biêt sám hối mà trở về trong thế giới yêu thương của Ngài …
Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như một sự sống “thuần khiết” và “phong phú”. Thứ tình yêu thuần khiết ấy biến đổi “từ bên trong”, để ai đó được yêu thương, được cứu độ thì cũng tuôn tràn thứ hoa trái sung mãn của tình yêu cho người khác. Do đó, thế giới yêu thương của Chúa là thế giới “đông vui”.

Tạm kết

Một xã hội đảo ngược là một xã hội mất căn tính, một xã hội đeo đuổi những thực tại "trên ngọn" mà lại bỏ quên "gốc rễ". Rất nhiều sự ác trong cuộc đời mà một nỗ lực luân lý cá nhân khó lòng giải quyết được, nếu người ta không thấy được nguyên nhân sâu xa do sự đảo ngược cấu trúc chân thật, sự đảo ngược giữa "an cư và lạc nghiệp", đảo ngược giữa "cái có và cái là", đảo ngược giữa "phẩm giá và chức năng" ... Người ta không thấy được cái toàn thể tế vi của cuộc sống nên thường đâm đầu vào những đường lối giải quyết lệch lạc.
Trong thế giới bị đảo ngược, người ta bỏ quên cái "mình là" để vun đắp cho cái "mình có"; người ta thay thế cho một sự tôn trọng phẩm giá căn bản của con người để chỉ thấy có sự cao thấp của chức năng; người ta xum xoe với con người có tiền bạc, có địa vị, có tài năng hay đức độ mà không đặt mình trong một cộng đoàn "thuộc về" nhau; người ta bỏ quên cách sống an hòa với người khác để tìm thành công nơi những thứ kỹ năng giải quyết vấn đề; người ta bận tâm để thích ứng mà bỏ quên cảm nhận giá trị tự tại "thiêng liêng" trong tâm hồn; người ta tìm chuẩn mực đời mình bằng cách so chiếu và một thang điểm xã hội mà không còn biết sáng tạo bản thân mình như một tác phẩm nghệ thuật; ...
Hơn lúc nào hết, trong tình hình khủng hoảng về môi sinh và xã hội của thế giới hiện đại, người Kitô hữu cần hiểu ra ý nghĩa căn nguyên và toàn vẹn của Tin mừng Đức Giêsu Kitô. Kitô giáo không phải chỉ như một thái độ tôn giáo bên cạnh cuộc sống, nhưng là nguồn mạch duy nhất cho nền văn minh chân thực. Trách nhiệm "lớn" của người Kitô hữu thật ra không phải là làm những việc to lớn vĩ đại, nhưng ưu tiên hơn cả là tìm lại một cấu trúc xuôi chiều cho môi trường sống thường ngày, là tìm lại, chẳng những "địa tầng chân thiện mỹ" trong cách sống và cách cư xử, nhưng sâu xa hơn là tìm lại Thiên Chúa như cội nguồn uyên nguyên của sự sống và tình yêu cho toàn bộ vũ trụ và thế giới hôm nay.
Chỉ có một sự sống tinh tuyền, thật tinh tuyền nơi đức Giêsu Phục Sinh, mới có thể "phục sinh" sự sống đích thực cho nhân loại. Đức Giêsu Phục Sinh "thổi" Thánh Thần Sáng Tạo trên cộng đoàn các môn đệ và các Kitô hữu đầu tiên, chuyển thông sự sống của Thiên Chúa cho con người.
Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa mới có thể cung cấp nguồn mạch cho sự sống của nhân loại hôm nay, thứ tình yêu có lẽ giống như thứ tình cảm của con người một phần, nhưng chắc chắn giống nhiều hơn như một sự sống. Tình cảm thuần túy sẽ bấp bênh theo hoàn cảnh, luôn phiếm diện và bị phai lạt theo thời gian; nhưng tình cảm xuất phát từ sự sống đích thực thì có khả năng tăng trưởng đúng đắn, lan tỏa sức sống chân thật đến mọi lãnh vực và chín mùi trong sự hy sinh bản thân cho người mình yêu thương. Sự sống mới từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô đích thực là lòng thương xót làm cho nhân loại được sống và sống dồi dào.



[1] Tông Huấn Octogesima advediens 14-5-1971, trích lại trong Laudato si, số 4.
[2]Gioan Phaolo II, Diễn văn tại khoa họp khoáng đại lần thứ III của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh ở Puebla ngày 28-01-1979, trích lại trong Gioan Phaolo II, Lương Tâm Nhân Loại, bản dịch của lm. Nguyễn Hữu Thy, trang 57-58.

[3] Ibid., tr. 68
[4] ĐGH Phanxicô, Laudato si, số 115-116, Xc toàn chương III.

[5]Gioan Phaolô II, Ký Ức và Căn Tính, Phần I,2, “Hệ tư tưởng của sự dữ”.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn