Bí tích Hôn nhân, Dấu hiệu của Tình Yêu trung tín


Tiến sĩ Thomas Richstatter, OFM
Trong mỗi bí tích, một cánh cửa được mở ra
và chúng ta có thể thoáng thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa
và kế hoạch cữu rỗi nhân loại của Người.
Trong hôn nhân Kitô giáo, chúng ta thấy rằng,
Thiên Chúa không để cho con
người phải ở một mình,
nhưng muốn cho họ cùng nhau thiết lập một dự án cuộc sống mới.
Trúc Bạch, OP., chuyển ngữ
Hôn nhân là gì?  Một linh mục như tôi có vẻ như không phải là người trả lời câu hỏi đó vì tôi chưa kết hôn, chưa bao giờ lập gia đình và cũng không có ý định lập gia đình. Tất nhiên, đó không phải là những điều kiện thiết yếu để có thể nói về hôn nhân. 
Ngày nay, hôn nhân chắc chắn là một chủ đề đáng để đưa ra thảo luận, một chủ đề cần phải được hiểu rõ hơn. Với người Công giáo, hôn nhân không đơn thuần chỉ là giao ước mà còn là bí tích. Mặc dù tôi không kết hôn, nhưng tôi đã có một số hiểu biết về bí tích Hôn nhân. Tôi đã nhiều lần chứng hôn cho thân hữu và giáo dân. Tôi đã tham dự lễ cưới nhiều lần. Trên thực tế, bí tích Hôn nhân là bí tích đầu tiên mà tôi trải nghiệm, vì trước khi tôi chịu phép Thánh Tẩy, tôi được sinh ra trong cuộc hôn nhân Công giáo.
Những gì tôi sẽ nói về bí tích này được rút ra từ kinh nghiệm của tôi về cha mẹ tôi và nhiều cặp vợ chồng mà tôi đã có dịp thảo luận về ý nghĩa bí tích Hôn nhân, những người từ Phong trào Gia đình Công giáo và gặp gỡ trong hôn nhân, và hàng trăm cặp vợ chồng mà tôi đã giúp chuẩn bị cho hôn nhân của họ. Những cặp vợ chồng này thường nói với tôi về ý nghĩa mà họ tìm thấy trong bí tích này. Khi tôi suy niệm về những đoạn Thánh kinh mà các cặp vợ chồng đã chọn để đọc trong lễ cưới của họ, tôi đã đi đến kết luận sau đây: Hôn nhân là việc dấn thân vào một dự án cuộc sống mới.
Dự án cuộc sống mới
Ai thì cũng đều có một mục đích nào đó để hướng tới trong cuộc sống: một cái gì đó họ muốn trở thành. Có thể mất một thời gian để tìm ra nó là cái gì, nhưng chắc chăn cuối cùng là một dự án cuộc sống sẽ hình thành, cách vô tình hay hữu ý. Mọi người thường theo đuổi mục tiêu nào đó, chẳng hạn: trở thành bác sĩ phẫu thuật chuyên môn cao, trở thành giáo viên mẫu giáo giỏi, làm chủ một trang trại hoặc những thứ khác nữa,… Nhưng rồi, trên đường đời tấp nập, có lúc họ gặp một người nào đó mà họ bị cuốn hút, và tình yêu dành cho người ấy có thể thay thế những dự định, mục đích mà họ đang theo đuổi. Họ cam kết cho một dự án cuộc sống mới.
Họ quyết định sẽ trở thành hạnh phúc, điều thiện hảo cho người kia, thể hiện rõ qua những việc làm cụ thể trong chương trình sống của họ. Họ ưu tiên cho điều ấy hơn cả những mục đích và những ước mơ của riêng mình. Và khi người kia cũng đưa ra một quyết định tương tự, rồi cùng nhau, cả hai sẽ dấn thân vào một cuộc phiêu lưu hoàn toàn mới. Đối với tôi, dường như đó là ý nghĩa căn bản của bí tích Hôn nhân.
Bí tích này tiết lộ chiều kích tôn giáo của hôn nhân.  Ngoài khía cạnh con người, xã hội và pháp luật của hôn nhân, dấu hiệu công khai mà một người hoàn toàn trao hiến cho một người khác, thì bí tích Hôn nhân còn là một tuyên bố công khai về Thiên Chúa. Việc lãnh nhận bí tích nào cũng đều cho thấy một thực tại tối hậu này: Thiên Chúa là ai và Người có vai trò gì với chúng ta.
Trong Thánh kinh, mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người thường được diễn tả dưới hình thức một cuộc hôn nhân. Những Kitô hữu đầu tiên cũng đã sử dụng hình ảnh này khi suy gẫm về tình yêu của Chúa Kitô đối với nhân loại. Chúa Kitô và Giáo hội được kết hợp trong tình yêu hy hiến, trao dâng như tình yêu vợ chồng (Xc. Ep 5, 21-33). “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh”(Ep 5, 31-32).
Hôn nhân Công giáo
Hôn nhân đã được hình thành một thời gian dài trước khi Chúa Giêsu giáng sinh. Cha mẹ Người đã lập gia đình, và ít nhất một số các Tông đồ cũng thế, chẳng hạn trong Tin mừng Nhất lãm, chúng ta đọc thấy  cụm từ “mẹ vợ của ông Phêrô” (Xc. Mt 8,14; Mc 1,30, Lc 4, 38). Trong Giáo hội sơ khai, các Kitô hữu đã kết hôn như bất cứ ai khác trong nền văn hoá nơi họ sống. Dần dần, các Kitô hữu bắt đầu thấy rằng, mối liên kết thương yêu chồng vợ không chỉ thể hiện những giá trị gia đình mà còn về vai trò của Thiên Chúa.
Theo dòng lịch sử, mãi cho đến thế kỷ XII, các cuộc hôn nhân đã diễn ra theo những nghi thức khác mà giờ đây chúng ta hiểu là bí tích. Trong suốt thời Trung Cổ không có nghi lễ cưới thống nhất cho người Kitô hữu. Nghi thức lễ cưới Công giáo mà chúng ta thấy như ​​ngày nay chủ yếu thình thành từ thế kỷ XVI.
Các nghi thức của bí tích Hôn nhân cũng có một “bộ khung” giống như những bí tích khác, bao gồm: các tín hữu quy tụ lại, có các bài đọc Thánh kinh, các công thức phụng vụ… Tín hữu quy tu lại như việc tham dự thánh lễ Chúa nhật, mặc dù nghi thức rước cô dâu chú rể vào nhà thờ có thể phức tạp hơn (đôi khi, những nghi thức phụ như vậy lại làm xao nhãng những điều chính yếu, nhưng tôi không muốn nói về sự lạm dụng ở đây). Đã có thời thân phụ cô dâu dẫn con mình đi để “đổi lấy” một khoản tiền (sính lễ) của nhà trai. Thời nay, khi mà không còn có hình thức “bán” như vậy nữa thì hiểu như là “trao tặng”.
Tất nhiên, ngày nay, các cặp đôi sẽ chẳng chấp nhận nổi kiểu “đổi chác” trong quá khứ, nhưng muốn đám cưới của mình là sự hợp tác của họ hàng đôi bên. Các cặp đôi thường sắp xếp để những người tham dự đều có tâm tình hiệp thông với mình: chú rể sẽ đi cùng cha mẹ, họ hàng của mình và cô dâu cũng vậy. Rồi, đến trước nhà thờ, họ sẽ “rời bỏ” cha mẹ để đến với nhau, đồng thời cũng là ra mắt cộng đoàn và mời gọi mọi người cùng nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho việc mình đang làm. Người dẫn lễ sẽ có nhiệm vụ sắp xếp các phần sao cho ăn khớp. Sau khi nghi thức nhập lễ kết thúc, cộng đoàn sẽ ngồi xuống và lắng nghe những bài đọc trong Thánh kinh, hai bài đọc tựa như thánh lễ Chúa nhật. Đôi bạn sẽ được chọn các đoạn Thánh kinh theo theo ý nghĩa mà họ muốn cho lễ cưới của họ. Vì vậy, các bài đọc Thánh kinh đôi khi sẽ đề cập đến “sự sáng tạo,” vì cặp vợ chồng mới  đang muốn làm ra những điều mới mẻ, chẳng hạn: một dự án cuộc sống mới, một mối tương quan mới, một gia đình mới. Họ là dấu chỉ của “chương trình yêu thương” mà Thiên Chúa thực hiện khi sáng tạo thế giới. Hoặc các bài đọc sẽ đề cập đến ý nghĩa của sự hợp nhất: chồng và vợ sẽ trở nên một xương một thịt. 
Hôn nhân Kitô giáo diễn tả ý muốn của Thiên Chúa để hợp nhất với chúng ta. Cặp đôi sẽ đến trước cộng đoàn Giáo hội để thề hứa chung thủy suốt đời, dấu chỉ của tình yêu vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã, đang và sẽ dành cho nhân loại. Và rồi, cộng đoàn sẽ cùng cầu nguyện cho đôi bạn, cho lời thề hứa được vững bền. Linh mục, những người tham dự và cộng đoàn Giáo hội sẽ là chứng nhân cho giao ước của đôi bạn. Đôi bạn sẽ trao nhẫn cho nhau như một dấu hiệu của tình yêu và lòng chung thủy và đóng dấu lời thề với một nụ hôn. Nghi thức thề ước sẽ được diễn ra trong khung cảnh của bí tích Thánh Thể. Bữa tiệc Thánh Thể sẽ làm cho hôn nhân thêm hoàn thiện, diễn tả rõ nét tình yêu của Thiên Chúa và mong muốn của Người được hợp nhất với chúng ta. Khi bánh và rượu được đưa đến bàn thờ, linh mục đọc lời ngợi khen và tạ ơn (Kinh nguyện Thánh Thể); và rồi sau đó, cộng đoàn sẽ tiến lên để hiệp lễ,  một dấu chỉ sống động về ý muốn của Thiên Chúa để nên một với con người. Cuối thánh lễ, vị chủ tế sẽ chúc lành cho cô dâu, chú rể và toàn thể cộng đoàn Kitô hữu để họ ra làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn cõi nhân sinh.
Điều gì làm nên hôn nhân?
Đôi khi ta có thể học biết được rất nhiều về một cái gì đó bằng cách nhìn vào mặt trái của nó. Chúng ta có thể tìm hiểu về bí tích Hôn nhân bằng cách xem xét những chỉ dẫn của Giáo hội, trong trường hợp “tiêu hôn,” nhìn nhận rằng đôi bạn chưa bao giờ thực sự kết hôn.
Tôi đã nghe nhiều người, trong những hoàn cảnh khác nhau nói rằng, việc tiêu hôn chỉ là một cách ly hôn của người Công giáo. Mới nghe qua thì cũng có vẻ hữu lý, tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng việc tiêu hôn là một điều rất khác với  ly hôn: ly hôn là sự giải thể, sự chấm dứt của một cuộc hôn nhân, còn tiêu hôn là tuyên bố rằng chính thức của Giáo hội rằng bí tích hôn nhân đã không thành.
Để có thể tiến tới hôn nhân Công giáo, người nam và người nữ phải có khả năng dấn thân, khả năng trao tặng.  Khi còn nhỏ, cha mẹ có lẽ đã từng dạy chúng ta từng bước để sống rộng lượng. Chúng ta có lẽ đã được dạy để chia sẻ búp bê, đồ chơi, rồi bánh sinh nhật… Từng chút một, chúng ta được học cách chia sẻ thời gian và những gì bản thân có. Việc học để biết trao ban bản thân là rất cần thiết cho sự chuẩn bị hôn nhân. Một người mà không đủ trưởng thành và hào phóng trên con đường trao hiến thì khó lòng có một cuộc hôn nhân thành công, mặc dù người đó cũng có thể sẻ chia với người khác một căn hộ hoặc cưu mang con cái.
Có nhiều lý do khiến đôi bạn khó có thể hòa nhập đời sống, và tất nhiên không phải lúc nào cũng là do thiếu sự rộng lượng. Tuyên bố công khai rằng hôn nhân không bao giờ tồn tại là những gì người Công giáo gọi là tiêu hôn. Giáo hội không muốn nói rằng một cuộc hôn nhân của đôi bạn chấm dứt bởi vì tình yêu của chồng vợ là dấu hiệu tình yêu bất diệt của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì không kết thúc trong sự phân ly. Thiên Chúa thì luôn thành tín dù cho con người có bất trung. Giáo hội mong muốn rằng thậm chí khi một người phối ngẫu không tin vào mối dây liên kết của hôn nhân, thì người còn lại, bằng đức tin kiên định của mình, sẽ trở nên lời chứng cho toàn thể cộng đồng về con đường tình yêu của Thiên Chúa.
Giao ước hôn nhân của chúng ta với Thiên Chúa
Trong mỗi bí tích, một cánh cửa được mở ra và chúng ta có thể thoáng thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa và kế hoạch cữu rỗi nhân loại của Người. Trong hôn nhân Kitô giáo, chúng ta thấy rằng, Thiên Chúa không để cho con người phải ở một mình, nhưng muốn cho họ cùng nhau thiết lập một dự án cuộc sống mới. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta và mọi thứ; Người luôn tín trung và mở rộng vòng tay chờ đón chúng ta, cho dù có chuyện gì xẩy ra đi nữa, cho dù chúng ta có trung thành hay bội phản; cho dù chúng ta có lạc lối trong tội lỗi hay vẫn ở trong vòng tay yêu thương của Người. Đây là dấu chỉ bí tích mà người chồng người vợ có thể trao tặng cho nhau và cho toàn thể cộng đoàn tín hữu.
Tôi cũng đã có những cam kết với Thiên Chúa và chính Người cũng có những cam kết với tôi. Lắm lúc tôi tự hỏi: liệu rằng Thiên Chúa có phải là Đấng trung tín? Tôi chưa bao giờ thấy Thiên Chúa, nhưng tôi có thể thấy lòng chung thủy của những người chồng, người vợ Kitô hữu. Tình yêu của họ dành cho nhau là dấu hiệu bí tích và là lời chứng về tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi. Tôi tin rằng, cuộc sống của mỗi người chúng ta được kết nối với nhau như vải được dệt nên bằng nhiều “sợi chỉ cam kết.” Sự trung thành trong cam kết của tha nhân tăng cường cho cam kết của riêng tôi. Đây thật sự là một mầu nhiệm vĩ đại. Nó luôn chạm vào đáy lòng tôi, mỗi khi tôi tham dự một đám cưới Công giáo và mỗi lần tôi cảm nghiệm về mầu nhiệm tình yêu giữa người chồng và người vợ.
Đám cưới của ai?
Hôn nhân là một giao ước “theo đó người nam và người nữ làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời.”[1] Thông thường, chúng ta sẽ nghĩ về giao ước là cái gì đó lạ lẫm hơn là đặt trong một bối cảnh giữa hai người cụ thể nào đó. Một cách đơn giản, hôn nhân là nhằm mưu ích cho đôi bạn cũng như cho con cái của họ. Đôi khi, chúng ta cũng thường nghĩ rằng đám cưới chỉ dành cho đôi bạn, như thể chỉ có họ. Họ có thể mời bất cứ ai họ muốn, hát những bài hát họ ưa thích, sắp đặt tiệc cưới nơi họ thấy thích hợp…
Công đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta rằng, giao ước hôn nhân tồn tại không chỉ cho lợi ích của các đôi bạn và con cái họ, mà còn vì lợi ích của Giáo hội và xã hội. Trong những năm sau Công đồng Vatican II, sự hiểu biết của chúng ta về bí tích đã có một sự thay đổi, đó là chúng ta ngày càng nhận ra rằng, các bí tích “không phải riêng lẻ, nhưng là của cả toàn thể Giáo hội. Các hoạt động Phụng vụ thuộc về toàn thân thể Giáo hội, bày tỏ Giáo hội và tác động trên Giáo hội…”[2].
Rõ ràng, đám cưới có liên hệ mật thiết với cô dâu chú rể, bởi vì dầu sao đó là đám cưới của họ. Nhưng một đám cưới Kitô hữu cũng là một sự kiện Giáo hội; đó là lý do tại sao nó được cử hành trong thánh lễ. Mỗi cuộc hôn nhân đều quan trọng đối với toàn thể giáo xứ.
Trong nghi lễ Latinh, bí tích Hôn phối giữa hai người tín hữu Công giáo thường được cử hành trong thánh lễ do mối liên hệ của tất cả các bí tích với mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô. Trong thánh lễ diễn ra cuộc tưởng niệm của Giao ước mới, trong đó Chúa Kitô phối hiệp đến muôn đời với Giáo hội, Hiền thê yêu dấu của Người, đã được Người hy sinh cho họ, cũng như cho toàn thể nhân loại. Cho nên việc hai người phối ngẫu đóng dấu ấn của sự ưng thuận hiến thân trọng đời cho nhau, được kết hiệp với việc Chúa Kitô hiến dâng cho Giáo hội là điều hợp lý và họ rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa Kitô để “làm nên một thân thể” trong Chúa Kitô.[3]
Trong tương lai, sẽ có thể khó khăn để cử hành lễ cưới Công giáo cho đôi bạn. Tại sao? Ở Phương Tây hiện nay số linh mục đang giảm đi đáng kể và thường thì chỉ có thánh lễ vào cuối tuần mà thôi, cụ thể là ngày thứ Bảy. Có ít nhất hai giải pháp cho tình huống này. Thứ nhất, vị chứng hôn không phải là linh mục. Ở nhiều nơi, có những phó tế đã được phép làm điều này. Hoặc có nên cho những người không có chức thánh cũng có thể chứng hôn? Vì Giáo lý Công giáo có ghi: “vợ chồng, với tư cách là thừa tác viên của ân sủng của Chúa Kitô, sẽ ban bí tích cho nhau bằng cách bày tỏ sự ưng thuận của mình trước mặt Giáo hội”[4]. Tuy nhiên, sẽ không có thánh lễ trong những tình huống này, vì để cử hành thánh lễ thì cần phải có linh mục. Một giải pháp khác, đang được thử nghiệm  trong một số giáo xứ ở nước Mỹ, là tổ chức lễ cưới vào Chúa nhật. Thoạt tiên, đây có thể là một giải pháp hoàn toàn không thể chấp nhận. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ hơn, chúng tôi thiết nghĩ cũng có những yếu tố tích cực.
Phải thừa nhận rằng, vào ngày cưới có rất nhiều nghi lễ văn hoá khác nhau: lễ trong nhà thờ, nghi thức tiếp nhận, cắt bánh, ném bó hoa cưới của cô dâu, nhảy múa… Nhưng trung tâm của tất cả các nghi thức này chính là cử hành bí tích với sự ưng thuận giữa cô dâu và chú rể. Qua đó, hai con người (một nam, một nữ) sẽ thề hứa trung thành với nhau như Thiên Chúa đã luôn trung tín với con người. Đây là một nghi thức thánh thiêng khác với những thứ khác trong lễ cưới, vì nó ảnh hưởng đến cả toàn thể Giáo hội, đặc biệt là cộng đoàn giáo xứ. Ở các giáo xứ,  nếu việc trao nhau lời thề hứa được diễn ra trong sự hiện diện của cộng đoàn vào Chúa nhật thì chiều kích bí tích của hôn nhân có lẽ sẽ được dễ nhìn thấy và đánh giá cao hơn. Những gì cặp vợ chồng nói với nhau không phải là cho riêng họ. Lời thề hứa của họ cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai đối với chúng ta.


[1] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1601. 
[2] Xc. Vatican II, Hiến chế Phụng vụ thánh, số 26.
[3] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1621.
[4] Xc. Ibid., số 1623.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn