Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể và Thần học về gia đình


Như Tam Vị Thiên Chúa
hiện diện trong hoạt động của mỗi Ngôi vị:
công trình sáng tạo không phải chỉ của Cha;
công trình cứu chuộc không phải chỉ là của Con;
và công trình thánh hóa không chỉ là của Thánh Linh;
 Gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi hiệp thông
các thành viên ngôi vị trong gia đình với nhau, 
cùng thi hành một sứ vụ được trao ban.
Sóng Biển
Dẫn nhập

Khi tìm hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa, qua dòng lịch sử chúng ta biết có hai lối tiếp cận: thứ nhất - theologia khi nói đến đời sống nội tại của Thiên Chúa; thứ hai - oikonomia khi nói đến kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Khía cạnh nội tại của Tam Vị (Trinitas immanens) tức là tìm hiểu nguồn gốc của sự phân biệt cũng như tương quan giữa “Cha - Con - Thánh Linh”; còn khía cạnh nhiệm cục của Tam Vị (Trinitas immanens) lại thường được diễn tả qua công trình tạo dựng - cứu độ - thánh hóa của Tam Vị. Dẫu rằng, các hoạt động riêng biệt này đều là chung cho tất cả Ba ngôi, nhưng chúng ta vẫn thường thấy thần học (cổ điển) gán ghép mỗi công trình cho một Ngôi vị: Chúa Cha Đấng sáng tạo, Chúa con Đấng cứu chuộc, và Thánh Linh Đấng thánh hóa. Dựa vào cách tìm hiểu này, xin được đặt mầu nhiệm Thiên Chúa trong khung cảnh của gia đình; tức là gia đình được bí tích Hôn phối làm cho “nên giống” nhiệm cục của Tam Vị (Trinitas immanens). Khi tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo thành, gia đình Kitô hữu được mời gọi tham dự vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa; khi tuyên xưng Chúa Con là Đấng cứu chuộc, gia đình được mời gọi phản ánh Mầu nhiệm Nhập thể của Đức Kitô; và khi tuyên xưng Chúa Thánh Linh là Đấng thánh hóa, gia đình được mời gọi trở nên cộng đoàn của tình yêu.
1. Vợ chồng cùng tham dự vào quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa
Khi tuyên xưng Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành, công đồng Nixêa đã phát biểu: Chúng tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất, Cha toàn năng, Đấng tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình.” Lời tuyên xưng đó, người Kitô hữu vẫn còn lặp lại trong mỗi thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng. Tuyên xưng Thiên Chúa là Cha không có nghĩa rằng, Người là “đàn ông”, mà thực sự Thiên Chúa cũng chẳng phải là “mẹ”; tuyên xưng như thế là Giáo hội muốn dạy con cái mình rằng mọi sự trên trời dưới đất, hữu hình và vô hình đều hiện hữu nhờ Thiên Chúa, đều được sinh ra từ Thiên Chúa.
Chúng ta không dừng lại ở niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng, nhưng tiếp tục suy tư về việc “cộng tác” mà Thiên Chúa vì yêu thương đã mời gọi con người bước vào công trình tạo dựng của Người. Việc cộng tác vào công trình tạo dựng được thể hệ trong ơn gọi hôn nhân của người nam và người nữ, điều này được Đức Gioan Phaolô II chia sẻ với các gia đình như sau:
Bài đọc trích từ sách Sáng Thế, nhắc lại sự thật về việc tạo dựng. Đặc biệt, sự thật về việc tạo dựng con người ‘theo hình ảnh và giống Thiên Chúa’ (x. St 1,27). Như người nam và người nữ, con người được tạo dựng theo hình ảnh và giống chính Thiên Chúa ‘Ngài sáng tạo con người có nam có nữ’. Trong họ khởi đầu sự hiệp thông của con người. ‘Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt’. Trong sự hiệp nhất ấy, họ truyền lại sự sống cho những con người mới: trở thành cha mẹ. Họ tham dự vào quyền năng tạo dựng của chính Thiên Chúa. Ngày nay tất cả những ai làm cha mẹ, được dự phần vào mầu nhiệm sáng tạo, đều tuyên xưng Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành…[2]
Mục đích của hôn nhân là để người nam và người nữ yêu thương nhau và sản sinh giáo dục con cái.[3] Đặc tính này của hôn nhân diễn tả ý định yêu thương của Thiên Chúa. Vì thế, qua ơn gọi hôn nhân, người nam và người nữ kết hợp với nhau thành một gia đình chính là thể hiện tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa, mời gọi con người tham dự vào việc “sản sinh” của Thiên Chúa. Công đồng Vatican II đã khẳng định điều này:
Hôn nhân và tình yêu vợ chồng, tự bản tính, quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và đóng góp rất nhiều vào niềm hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đã phán: ‘Đàn ông ở một mình không tốt’ (St 2,18). Ngài là Đấng ‘… từ buổi đầu, đã dựng nên con người là nam là nữ’ (Mt 19,4), vì muốn cho con người được dự phần đặc biệt vào công trình tạo dựng, nên đã chúc lành cho người nam và người nữ khi phán: ‘Các ngươi hãy sinh sản và tăng số thêm nhiều’ (St 1,28). Từ đó, thái độ thực sự trân trọng tình yêu vợ chồng, cũng như tất cả định hướng của đời sống gia đình phát xuất từ thái độ ấy, đều nhằm giúp đôi vợ chồng, trong khi vẫn không đánh giá thấp các mục đích khác của hôn nhân, biết sẵn sàng cộng tác cách can đảm với tình yêu của Đấng Tạo Hóa và Cứu Thế, Đấng đang muốn nhờ họ làm cho gia đình Ngài ngày càng phát triển và phong phú hơn.[4]
Chính vì thế, “khi thực thi bổn phận truyền sinh và giáo dục với nhận thức đó chính là sứ mệnh của riêng mình, đôi vợ chồng nhận ra họ là những người đang cộng tác và diễn đạt tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hóa.”[5] Tình yêu đó là Thiên Chúa hằng muốn cho con người được sống; vì thế khi bước vào ơn gọi hôn nhân, người nam và người nữ cũng được mời gọi luôn mở cửa để sự sống của Thiên Chúa bước vào hoạt động trong gia đình họ; không ai có quyền ngăn cản sự sống, dù là chính người cha, người mẹ, những người trực tiếp can thiệp vào sự sống đó:
Bảo vệ quyền sống, quyền căn bản của con người: Trước hết cần phải tìm cách khẳng định về quyền căn bản của con người là quyền sống. Không thể làm cho quyền này trở nên vô ích, chẳng hạn như hợp pháp hóa việc chà đạp sự sống con người, đặc biệt sự sống của những con người chưa được sinh ra.[6]
Như vậy,
Từ việc chiêm ngắm về Chúa Cha, chúng ta có thể suy diễn trước hết một sự khẩn thiết cách đặc biệt trả lời cho những thách đố của giây phút lịch sử hiện nay. Nhìn vào Chúa Cha có nghĩa là nhận biết gia đình như nơi đón tiếp và cổ võ sự sống, nơi gây tình huynh đệ, với sự trợ giúp của Thần Khí Đức Kitô, tạo nên giữa con người ‘một tình huynh đệ và tương trợ mới, phản chiếu thực sự về mầu nhiệm trao ban và đón nhận hỗ tương của chính Ba Ngôi Cực Thánh’ (Evangelium vitae, số 76).[7]
 “ Hãy ra công làm việc …”[8]
Thiên Chúa là Đấng vẫn luôn hoạt động: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Khi đã mời gọi con người đi vào sự hiện hữu với Người, Thiên Chúa là Cha cũng mời gọi con người tiếp tục đi sâu vào công trình tạo dựng đó, tức là sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, dù ông bà  Nguyên tổ sa ngã, Thiên Chúa đã không bỏ mặc, nhưng tiếp tục mở đường để người nam và người nữ đầu tiên đó đi vào mầu nhiệm yêu thương của Người:
Với người đàn bà, Chúa phán: ‘Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.’ Với con người, Chúa phán: ‘Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: ‘Ngươi đừng ăn nó’, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.  Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn.[9]
Đây không đơn thuần là một sự trừng phạt dành cho con người, nhưng là cách biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Con người được đi sâu vào công trình lao động của Thiên Chúa. Hai người nam nữ không chỉ được mời gọi bước vào đời sống chung với nhau, nhưng còn phải làm việc cùng nhau; không chỉ “một túp lều tranh hai trái tim vàng”, nhưng còn phải ra công làm việc; vì thế, “lao động thường là phương thế để con người nuôi sống bản thân và gia đình, để liên kết với anh em và phục vụ họ, để có thể thực thi bác ái đích thực và cộng tác vào việc hoàn tất công trình sáng tạo của Thiên Chúa.” [10]
Và nữa,
Thiên Chúa còn ban cho con người khả năng tự do tham dự vào sự quan phòng của người khi trao cho họ trách nhiệm làm chủ trái đất và thống trị nó; như thế con người trở nên những nguyên nhân thông minh và tự do để hoàn tất công trình sáng tạo, làm cho công trình ấy được hài hòa trọn vẹn hầu mưu ích cho mình và cho tha nhân.[11]
Thánh Tôma quả quyết rằng, sự quan phòng của Thiên Chúa chính là sự tạo dựng kéo dài,[12] Người tiếp tục săn sóc những gì Người đã làm nên. Thiên Chúa là Cha không chỉ nơi việc “sinh ra” các thọ tạo, nhưng Người còn là Cha nơi việc hằng chăm lo cho mọi nhu cầu của con cái Người (Mt 10,30); lắng nghe mọi lời khẩn cầu của con cái và hằng mong điều tốt lành cho con cái (Mt 7,11; Lc 11,13). Giáo lý Hội thánh nhấn mạnh điều này rằng:
Công trình sáng tạo có sự tốt lành và hoàn hảo riêng, nhưng chưa hoàn tất khi được dựng nên. Vạn vật đang ở trong một ‘tiến trình’ hướng đến mọi sự trọn hảo tối hậu do Thiên Chúa định sẵn. Sự quan phòng của Thiên Chúa chính là những đường lối xếp đặt để đưa vạn vật tới sự trọn hảo đó. [13]
Vì thế, người nam và người nữ không chỉ được mời gọi sinh sản con cái theo nghĩa thể lý, nhưng còn được mời gọi bước vào đường lối quan phòng của Thiên Chúa qua việc giáo dục và nuôi dưỡng con cái.
Sự phong nhiêu của tình yêu vợ chồng không giản lược vào nguyên việc sinh ra con cái ngay cả khi việc này được hiểu theo nghĩa hết sức nhân bản của nó. Sự phong nhiêu được nới rộng và làm giàu bằng tất cả mọi kết quả của đời sống luân lý thiêng liêng và siêu nhiên mà người cha và người mẹ đều được mời gọi trao ban cho con cái họ, và qua chúng, cho Hội thánh và thế giới.[14]
Vì thế, khi sống ơn gọi hôn nhân cao cả đó, nơi việc vất vả sớm hôm cho con cái, nơi việc sống gương lành nhằm giáo dục con cái,
Họ tuyên xưng Thiên Chúa như người Cha, bởi vì nơi Người họ có được vinh dự làm cha làm mẹ. Và trong khi tuyên xưng đức tin của mình, họ phó thác nơi Người, “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,15), vì bổn phận lớn lao liên hệ đến họ cách riêng như là cha mẹ: công trình giáo dục con cái. ‘Làm cha - làm mẹ’ có nghĩa là ‘có bổn phận giáo dục’: sinh sản theo nghĩa thiêng liêng.[15]
2. Hôn nhân phản ánh mầu nhiệm nhập thể
Hôn nhân là một mầu nhiệm cao cả phản ảnh mầu nhiệm Nhập thể. Thật thế, theo Chúa Giêsu mạc khải cho biết, “Nước Thiên Chúa có thể được ví như ông vua kia tổ chức một bữa tiệc cưới cho con trai của mình” (Mt.22:2). “Ông vua” tổ chức tiệc cưới đây là ai, nếu không phải là Chúa Cha, “con trai” của vua đây là ai, nếu không phải là Chúa Giêsu Kitô, và “bữa tiệc cưới” đây là gì, nếu không phải là mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm “Thiên Chúa là Thần Linh” (Ga 4,24) mặc lấy nhân tính loài người nơi “Lời đã hoá thành nhục thể” (Ga 1,14). “Bữa tiệc cưới” này, trước hết, được bắt đầu bằng lễ nghi đính hôn nơi cung dạ trọn đời tuyền vẹn của Trinh nữ đầy ơn phúc Maria trong ngày Thiên sứ truyền tin cho Người, sau đó đã được tổ chức tại hang đá Bêlem vào một đêm đông lạnh buốt, với khách được mời đại diện là nhóm mục đồng Do Thái nghèo hèn (x. Lc 2,8-18) cùng với nhóm vương gia chiêm tinh dân ngoại (x. Mt 2,1-11).
Ý nghĩa “cả hai trở nên một xương một thịt” (St 2,24; Mt19,5) nơi đời sống hôn nhân vợ chồng, như ý định của Thiên Chúa khi dựng nên con người theo hình ảnh Người, có nam có nữ, không thể nào thực hiện được về phương diện thể lý hay sinh lý, bằng khả năng tự nhiên của loài người. Thế nhưng, trong mầu nhiệm nhập thể, ý nghĩa “cả hai trở nên một thân thể” nơi đời sống hôn nhân vợ chồng này đã được hoàn toàn và trọn vẹn hiện thực khi Lời đã hoá thành nhục thể, mầu nhiệm Thần tính và nhân tính được kết hợp trong ơn Ngôi Hiệp nơi Chúa Giêsu Kitô. Chính vì “Nước Thiên Chúa có thể được ví như một bữa tiệc cưới” như thế mà, theo Tin mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu đã mở màn cho công cuộc rao giảng của Người bằng việc “tỏ vinh quang của Người ra” (Ga 2,11) ở tiệc cưới Cana. Đức Gioan Phaolô II nhấn còn mạnh điều này:
Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được hoàn tất vĩnh viễn nơi Đức Giêsu Kitô, vị Hôn Phu yêu thương và hiến mình làm Đấng cứu độ nhân loại bằng cách kết hiệp nhân loại với Người như chính thân mình Người. Người mạc khải sự thật nguyên thủy của hôn nhân, sự thật của “thuở ban đầu” (Mt 19,5) và khi giải phóng con người khỏi tâm hồn chai đá, Người làm cho con người có khả năng thực hiện sự thật này trọn vẹn. Mạc khải này đạt đến sự viên mãi dứt khoát của nó trong việc trao ban tình yêu mà Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho loài người khi Người mặc lấy bản tính nhân loại và trong việc hy sinh mà Đức Giêsu Kitô đã hiến mình trên thập giá cho hiên thê của Người là Hội thánh. Sự hy sinh ấy biểu lộ trọn vẹn ý định mà Thiên Chúa đã ghi khắc vào trong nhân tính của người nam và người nữ từ khi tạo dựng họ (Ep 5,32-33).[17]
Hôn nhân là một mầu nhiệm cao cả phản ảnh mầu nhiệm Nhập thể, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa tỏ mình ra, nên hôn nhân gia đình không phải chỉ là “một túp lều tranh hai trái tim vàng tầm thường vậy thôi, mà còn là chính cung thánh thần linh, nơi Thiên Chúa ở giữa chúng sinh (Mt 1,23) ngự trị và tỏ mình ra, qua những thăng trầm của cuộc sống vợ chồng, để cuộc sống hôn nhân gia đình của họ trở thành một Tin mừng soi chiếu vào những vùng văn hóa sự chết duy nhân bản hiện nay, một thứ văn hóa chỉ tôn sùng con người như thần tượng tối cao của mình, và chỉ phụng sự quyền làm người bất khả xâm phạm của mình, hoàn toàn loại bỏ lề luật tự nhiên cũng như lề luật luân lý bất biến của Ðấng Tối Cao, là những gì đòi hỏi họ phải tận trung vợ chồng với nhau với bất cứ giá nào, cũng như phải sử dụng chính đáng khả năng truyền sinh của mình và tôn trọng sự sống bởi đó mà ra. Chính vì thế, dưới mái ấm gia đình, người nam người nữ luôn được mời gọi phải thể hiện sự kết hợp ban đầu của Thiên Chúa dành cho họ:
Sự hiệp thông đầu tiên là sự hiệp thông được thiết lập và phát triển giữa đôi bạn: nhờ khế ước của tình yêu vợ chồng, người nam và người nữ không còn phải là hai nhưng là một xác thịt và được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau.[18]
Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan…
Mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa không chỉ là mầu nhiệm của sự kết hợp giữa thần tính với nhân tính, nhưng còn là thái độ vâng lời thực thi thánh ý Cha:
Con Thiên Chúa từ trời xuống, không phải để làm theo ý Người, nhưng để làm theo ý Đấng đã cử Người (Ga 6,38), khi vào trần gian, Người nói: … Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Người… Chính theo ý đó của Thiên Chúa, mà chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ (Hr 10,5-10). Ngay từ phút đầu tiên khi nhập thể, Chúa con sống chết với ý định cứu độ của Thiên Chúa trong sứ vụ cứu thế của mình: Lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất tốt đẹp công trình của Người (Ga 4,34). Lễ hy sinh của Đức Giêsu đền bù tội lỗi thế gian (1 Ga 2,2) là cách diễn tả sự thông hiệp tình yêu với Chúa Cha: Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, chính vì tôi hy sinh mạng sống mình (Ga 10,17). Thế gian phải biết rằng tôi yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho tôi (Ga 14,31).[19]
Điều này thật gần gũi với ơn gọi mà người nam và người nữ được mời gọi khi bước vào đời sống hôn nhân; giờ đây họ phải sống cho nhau, không phải người đàn ông nói với vợ mình “em là của anh” nhưng là “anh là của em”; và người phụ nữ không nói với chồng mình “anh là của em” nhưng là “em là của anh”; giờ phút nói lên lời thề ước trung thành với nhau mãi mãi, dù thịnh vượng hay nghèo đói, dù đau khổ hay vui sướng là lúc đôi bạn tỏ rõ quyết tâm sống cho nhau.
Như xưa, Thiên Chúa đến với dân Ngài trong một giao ước yêu thương và trung thành, ngày nay, Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Giáo hội cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích Hôn Phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, nhưng Người đã yêu thương Giáo hội và nộp mình vì Giáo hội.[20]
Đức Kitô canh tân ý định nguyên thủy mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong lòng người nam và người nữ, và trong lúc cử hành bí tích Hôn Phối, Người ban cho họ “một tấm lòng mới”: như thế, không những đôi bạn có thể vượt lên được khỏi sự “cứng lòng” (Mt 19,8), mà nhất là họ  còn có thể dự phần vào tình yêu toàn diện và dứt khoát của Đức Kitô, là Giao ước mới và vĩnh cửu đã trở thành xác phàm. Cũng như Chúa Giêsu là vị  “chứng nhân trung thành”, là tiếng “có” của những lời Thiên Chúa hứa, và đó là sự thể hiện tối cao của lòng trung tín vô điều kiện mà với sự trung tín ấy Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài, thì đôi bạn Kitô hữu cũng được mời gọi để thực sự dự phần vào sự bất khả phân ly không thể thu hồi đang kết nối Đức Kitô với Hội thánh là hiền thê mà Người yêu mến đến tận cùng.[21]
Sự tận hiến trọn đời cho nhau là một đòi hỏi tuyệt đối của hôn nhân Kitô giáo, họ phải trung thành với nhau đến chết, đó là một sự trao hiến trọn vẹn:
Bắt nguồn từ trong sự trao ban trọn vẹn và đích thân giữa hai vợ chồng, cũng như do lợi ích của con cái đòi hỏi, sự bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định Thiên Chúa đã bày tỏ trong mạc khải của Người: chính Người muốn hôn nhân phải bất khả phân ly và Người ban cho nó ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung thành mà Thiên Chúa đã có đối với con người và là tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ ra đối với Hội thánh.[22]
3. Gia đình: cộng đoàn của tình yêu
Tình yêu Hôn nhân, tình yêu của Thánh Linh
Tín biểu chúng ta vẫn hằng đọc vào các Chúa nhật và lễ trọng tuyên xưng Thánh Linh: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng Ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra.” Thánh Linh phát xuất từ tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Linh được coi như tình yêu liên kết giữa Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu trao ban hỗ tương. Tình yêu ấy không khép kín lại trong nội tại của Thiên Chúa nhưng tiếp tục trao ban dạt dào ra ngoài. Tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện đều bắt nguồn từ tình yêu dạt dào vô biên của Người, tức là đều bởi Thánh Linh, tình yêu trao ban đón nhận giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Chính vì thế, khi đôi bạn thể hiện tình yêu dành trọn cho nhau qua bí tích Hôn phối, là lúc đôi bạn nhìn nhận tình yêu đó phát xuất từ Thánh Linh. Thánh Gioan đã xác nhận điều này: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,7-8).
Vì thế, Hôn nhân là một mầu nhiệm cao cả phản ảnh mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, theo sách Sáng Thế, mạc khải cho thấy: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Việc sáng tạo đó khởi đi từ ý định của Ðấng Tạo Hoá: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26). Chính vì thế, con người được dựng nên có nam có nữ đã phản ảnh cộng đồng “chúng ta” nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một tác giả đã lập luận rằng, con người được dựng nên có nam có nữ đã phản ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi ở cả hữu thể và phái tính của mình. Về hữu thể, không phải hay sao, ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên chỉ có một con người duy nhất (x. St 2,7), “hình ảnh” chỉ có một Thiên Chúa duy nhất (x. Ga 17,3). Về phái tính, con người duy nhất được Thiên Chúa dựng nên ngay từ ban đầu ấy được biểu hiệu nơi Ađam, “tương tự như” Thiên Chúa Ngôi Cha; để rồi từ con người duy nhất này Thiên Chúa làm nên một “đồng bạn cân xứng” (St 2,18), “tương tự như Thiên Chúa Ngôi Con nhiệm sinh từ Thiên Chúa Ngôi Cha; và tình yêu đã phát hiện từ việc Ađam nhận biết xương thịt của mình rồi cả hai trở nên một thân thể (x. St 2,23-24), “tương tự như” Thiên Chúa Ngôi Ba nhiệm xuất từ Thiên Chúa Ngôi Cha và Thiên Chúa Ngôi Con. [23]
Thánh Linh không chỉ là nguyên khởi cho tình yêu của đôi bạn, nhưng còn là “ân ban” để giúp đôi bạn sống hành trình yêu thương nữa. Thật vậy,
Kim chỉ nam và quy luật của họ (đôi vợ chồng) là Thần Khí Đức Giêsu, đã được đổ xuống trong lòng họ nhờ việc cử hành bí tích Hôn phối. Tiếp nối với phép rửa trong nước và Thần Khí, bí tích Hôn nhân nêu lên một lần nữa luật tình yêu của Tin Mừng và nhờ ơn Thần Khí, nó khắc sâu luật ấy vào lòng đôi bạn Kitô hữu: tình yêu của họ được thanh tẩy và cứu độ, là một hoa quả của Thần Khí, Đấng đang tác động trong lòng các tín hữu và đồng thời đang tự bộ lộ như lệnh truyền căn bản cho đời sống luân lý, một đời sống đang được đặt ra trước sự tự do hữu trách của họ.[24]
Gia đình là nơi tập họp những con người có nam có nữ. Ngày xưa khi đứng trước cộng đoàn Dân Chúa, đôi bạn đã thề hứa: “Giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời”. Sự tôn trọng và yêu thương nhau suốt đời không phải phát xuất từ con người của đôi bạn, mà từ Tam Vị Thiên Chúa. Tam Vị Thiên Chúa tôn trọng và yêu thương nhau để rồi chính đôi vợ chồng lại tiếp tục sự tôn trọng và yêu thương đó trong mọi lãnh vực, mọi khía cạnh của cuộc sống trong đời sống gia đình.
Ở trong gia đình có chồng, có vợ, đứng về ngôi vị là hai người, sinh ra đứa con nữa là có ba người, nhưng ba người này không thành một như chính Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể, vì đó là một mầu nhiệm. Nhưng ba người đó có thể thành một nếu ba người này sống trong tình yêu Thiên Chúa. Ba người này hợp nhất lại thành một gia đình là Gia đình Chúa, có Chúa ngự trị, bởi vì họ ý thức được rằng, ở nơi đó Chúa Cha đang tiếp tục sáng tạo từ chính trong tâm hồn mỗi người, Chúa Con đang cứu chuộc, Thánh Linh đang thánh hóa. 
Tình yêu chia sẻ
Nơi con người, tình yêu thường mang tính cách chiếm đoạt; còn nơi Thiên Chúa, tình yêu thông ban. Thánh Linh tình yêu không tỏ mình xuất hiện nhưng âm thầm tác động làm vai trò môi giới liên kết - mối dây liên kết Chúa Cha với Chúa Con. Tình yêu đó duy trì cho các ngôi vị được tự lập chứ không bị xóa nhòa tiêu diệt. Thánh Linh tình yêu bảo đảm cho sự thông hiệp giữa Ba ngôi Thiên Chúa thì cũng trở thành nguyên tố và mẫu mực cho sự thông hiệp các gia đình, rộng lớn hơn là toàn thể Hội thánh.
Tình yêu gia đình, tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa cũng được Thánh Linh mời gọi bước vào sự nối kết đó.
Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị.[25]
Gia đình vẫn thường được định nghĩa là hạt nhân của xã hội, là một Giáo hội thu nhỏ; điều này nói lên vai trò sứ mạng của gia đình hạt nhân đối với đại gia đình thế giới, tức là sự thông dự trách nhiệm của gia đình vào sự thăng tiến của xã hội, Giáo hội.
Sự tham dự của gia đình vào sứ mạng của Hội thánh, được Đức Gioan Phaolô II chỉ ra qua ba khía cạnh, mà thực ra chỉ là một, tức là quy chiếu vào Đức Giêsu Kitô, trong tư cách là tiên tri, là tư tế và là vương đế, bằng cách trình bày gia đình Kitô hữu như là: Cộng đồng tin và loan báo Tin mừng; Cộng đồng đối thoại với Thiên Chúa; Cộng đồng phục vụ con người.[26] Đây không phải là một công tác nhiệm ý, tức là muốn làm hay không cũng được; nhưng là sứ mạng hệ tại bản chất của bí tích mà hai người đã lãnh nhận.
Nhờ bí tích Hôn phối trong bậc sống và trong lãnh vực của họ, đôi bạn và cha mẹ Kitô hữu cũng có được ơn riêng dành cho họ trong lòng dân Thiên Chúa. Do đó, không những họ ‘nhận được’ tình yêu của Đức Kitô để trở nên một cộng đồng ‘được ơn cứu rỗi’, mà còn được mời gọi ‘truyền đạt’ cho anh chị em của họ chính tình yêu của Đức Kitô, để như thế họ trở nên một cộng đồng, ‘cứu rỗi’ người khác.[27]
Giáo hội mà người Kitô hữu đang hiệp thông không phải là một Giáo hội vô hình, nhưng là Giáo hội nằm trong lòng thế giới. Điều đó cũng muốn nói lên sứ mạng của Giáo hội là biến đổi thế giới; theo nghĩa đó, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi thông dự vào sứ mạng đó của Giáo hội phổ quát. Đây vừa là ân sủng nhưng cũng vừa là trách nhiệm của gia đình Kitô hữu:
Các gia đình Kitô hữu đã ăn rễ sâu trong đức tin và đức cậy chung của mọi người và được sinh động nhờ đức ái, nên sự hiệp thông tinh thần của họ kết thành một năng lực bên trong từ đó sự công bình hòa giải, huynh đệ và hòa bình giữa mọi người được phát sinh, lan rộng và tăng trưởng. Như một Hội thánh “nhỏ”, gia đình Kitô hữu được mời gọi theo hình ảnh của Hội thánh “lớn”, để làm một dấu chỉ hiệp nhất cho thế giới và để theo chiều hướng ấy mà thực hiện, vai trò tiên tri, làm chứng cho vương quốc và cho hòa bình của Đức Kitô mà cả thế giới đang tiến tới.[28]
Gia đình Kitô hữu được mời gọi làm chứng cho mọi người thấy sự tận tâm quãng đại và vô vị lợi của mình đối với những vấn đề xã hội, mà ưu tiên là lo cho những người nghèo và những người bị bỏ rơi. Chính vì thế, khi bước theo Chúa trong một tình yêu thương đặc biệt đối với tất cả mọi người nghèo, gia đình Kitô hữu phải lưu tâm riêng đến những ai đói khát, túng thiếu, già cả, những ai bị đau ốm, nghiện ngập hoặc không có gia đình.[29]
Như Tam Vị Thiên Chúa hiện diện trong hoạt động của mỗi Ngôi vị: công trình sáng tạo không phải chỉ của Cha; công trình cứu chuộc không phải chỉ là của Con; và công trình thánh hóa không chỉ là của Thánh Linh; Gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi hiệp thông các thành viên, ngôi vị trong gia đình với nhau cùng thi hành một sứ vụ được trao ban. Tương quan này là một tương quan đan xen giữa cha mẹ với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa gia đình với toàn thể Giáo hội, xã hội.
Nếu gia đình Kitô hữu là một cộng đồng mà các liên hệ của nó đều đã được Đức Kitô canh tân nhờ đức tin, và các bí tích, thì việc nó tham dự vào sứ mạng của Hội thánh phải được thực hiện một cách cộng đồng; vợ chồng phải phục vụ Hội thánh và thế giới với tư cách là đôi bạn, cũng như cha mẹ và con cái phải phục vụ Hội thánh và thế giới với tư cách là gia đình.[30]
Kết luận
Người Kitô hữu, từ lúc thiếu thời đến khi trưởng thành, vẫn phải luôn ghi nhớ bài giáo lý đơn sơ này: có một Thiên Chúa duy nhất là Cha - Con - Thánh Linh. Các nhà Thần học dẫu suy tư cao siêu bao nhiêu đi nữa vẫn phải dựa trên bài giáo lý đơn sơ đó. Trời đất muôn vật hữu hình và vô hình đều do Chúa Cha tạo thành, nhưng trong công trình đó không vắng bóng Chúa Con và Thánh Linh; xuống thế cứu chuộc con người, mặc lấy xác phàm nhân là chính Chúa Con, nhưng cũng không thể trình bày ra khỏi tình yêu duy nhất của Cha - Con - Thánh Linh; nhiệm vụ thánh hóa con người là chính Thánh Linh, Đấng luôn đổ tràn đầy hồng ân cho con người, nhưng ta cũng không thể diễn tả ra khỏi sự hiệp nhất của Chúa Cha -  Chúa Con -  Chúa Thánh Linh. Làm sao hiểu được? Đó là mầu nhiệm! Khi diễn tả điều này vào trong “môi trường” cụ thể của gia đình không phải là nhằm để làm sáng tỏ mầu nhiệm đó; nhưng để thấy được Tình Yêu “khó hiểu” (mầu nhiệm) đó tuôn chảy vào mỗi gia đình, giúp gia đình sống nhiệm cuộc Yêu Thương của Thiên Chúa: tham dự vào Tình Yêu Tam Vị qua việc sản sinh và giáo dục con cái, qua việc gắn kết nên một và chung thủy trọn đời với nhau, qua việc lãnh nhận tình yêu từ Thiên Chúa và trao ban tình yêu đó cho mọi người trong môi trường sống của gia đình.


[1] St 1,28.
[2] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất với các gia đình (9.10.1994).
[3] Xc. Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1601.
[4] Vatican II, Gaudium et Spes, số 50.
[5] Ibid., số 50.
[6] Gioan Phaolô II, Giáo lý về Thông điệp Veritatis Splendor (12.06.1994).
[7] Gioan Phaolô II, “Gia Đình Cộng tác với Đấng Tạo Hóa”, triều yết chung (1.12.1999).
[8] Ga 6,27.
[9] St 3,16-19.
[10] Vatican II, Gaudium et Spes, số 67.
[11] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 307.
[12] xc. T. Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q.104, a.1.
[13] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 302.
[14] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 28.
[15] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất với các gia đình (9.10.1994). Nguyễn Văn Dụ, Gia đình trong trái tim và trong vai trò ngôn sứ của Đức Gioan Phaolô II, tr.449.
[16] Mt 19,5.
[17] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 13.
[18] Ibid., số 19.
[19] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 606.
[20] Vatican II, Gaudium et Spes, số 48.
[21] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 20.
[22] Ibid., số 20.
[23] Xc. Cao Tấn Tĩnh, Mái Ấm Yêu Thương, Cao Bùi, 1994, trang 47-63.
[24] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 63.
[25] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio,  số 18.
[26] Xc. Ibid., các số 51-64.
[27] Ibid., số 49.
[28] Ibid., số 48.
[29] Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 47.
[30] Ibid., số 50.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn