Tính đơn nhất và bất khả phân ly của hôn nhân Công giáo


Tính bất khả phân ly và bền vững của đời sống hôn nhân đã được con người đầu tiên của loài người tuyên bố
khi nói về Eva rằng:
"Người này là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi",
như thế hai người đâu còn phải là hai
mà là một xác thể trong huyền nhiệm của tình yêu hôn nhân.
Tôma Aq. Trần Phương Quang, SDD.
Dẫn nhập

Hôn nhân là một trong những điều thiện hảo, quí giá nhất của cộng đồng nhân loại. Dù ở thời đại nào hay bất cứ nơi đâu, hôn nhân vẫn luôn là chân trời hiện hữu của con người. Người ta có thể nhìn nhận, đánh giá hôn nhân theo từng khía cạnh khác nhau tùy theo hoàn cảnh môi trường sống. Đối với người Kitô hữu, khi nói đến hôn nhân, thì không còn là chuyện của hai người, nhưng trước hết và trên hết là của chính Thiên Chúa, vì chính Ngài tác tạo hôn nhân (x. MV 48). Thiên Chúa đã thiết định đời sống hôn nhân ngay từ thủa ban đầu. Vì vậy hôn nhân vừa là một "ơn gọi" vừa là một sứ mạng mà qua đời sống hôn nhân - gia đình, họ tham dự và công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, thực hiện ý muốn của Người là: yêu thương, sinh sản và giáo dục con cái.
Chính vì thế, ơn gọi hôn nhân đã được khắc sâu trong bản tính nhân loại và ẩn bên trong những khác biệt về văn hóa, xã hội, vẫn có đó đặc tính chung thủy của hôn nhân. Đặc tính ấy là tình yêu bền vững và kết hợp "bất khả phân ly". Hôn nhân đã được Chúa Giêsu thánh hóa, chúc phúc, được nâng lên hành bí tích. Thánh Phaolô diễn tả tính cách bí tích của thực tại hôn nhân như là sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh.[1] Tính bất khả phân ly và bền vững của đời sống hôn nhân đã được con người đầu tiên của loài người tuyên bố khi nói về Eva rằng: "Người này là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", như thế hai người đâu còn phải là hai mà là một xác thể trong huyền nhiệm của tình yêu hôn nhân.
Lịch sử dân Chúa thời Cựu ước vẫn luôn được mời gọi sống chung thủy trong đời sống hôn nhân. Và đến thời Tân ước, Đức Giêsu khẳng định: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 6). Điều này đã trở thành một giáo huấn mang giá trị vĩnh cửu đối với người Công giáo. Thế nhưng, suốt chiều dài lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử dân Thiên Chúa riêng vấn đề ly dị trở thành nan đề, cuộc sống đương đại của con người hôm nay phải chứng kiến quá nhiều hệ lụy của những cuộc đổ vỡ trong đời sống hôn nhân. Hằng ngày các phương tiện truyền thông cho thấy, đời sống hôn nhân ngày một khủng hoảng hơn bởi hiện trạng ly dị ngày càng gia tăng trên toàn thế giới.
Hôn nhân Công Giáo không phải chỉ là một định chế xã hội, cũng không phải là một phương thế chữa trị sự yếu đuối của con người, mà hôn nhân thực sự là một “giao ước”, một "ơn gọi siêu nhiên".
I. Nhìn chung về sự chung thủy trong đời hôn nhân
1.  Tầm quan trọng của lòng chung thủy
Tự bản chất tình yêu hôn nhân đòi hỏi sự chung thủy. Sự kết hợp mật thiết, việc hai người tự hiến cho nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín với nhau[2]. Hơn nữa, vì là bí tích của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và của Chúa Giêsu dành cho Hội thánh, nên hôn nhân đòi hỏi sự chung thủy.[3] "Nhờ chung thủy với nhau, họ có thể làm chứng cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa"[4].
Trong hôn nhân, sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc vợ chồng phải trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly.[5] Trong Giao ước hôn nhân, người nam và người nữ với những năng khiếu và khả năng khác biệt bổ túc lẫn cho nhau hết sức hoàn hảo. Vì lẽ đó, Thiên Chúa nói: "Người nam ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó" (St 2, 18). Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên một người nữ. Nhìn thấy người phụ nữ, Adam đã nói: "phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" và Thánh Kinh đã kết luận: "Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 1, 23tt). Cách diễn tả "một xương một thịt" xác định một cách thực tiễn và rõ rệt sự trọn vẹn và giúp đỡ lẫn nhau giữa người nam và người nữ trong đời sông hôn nhân. Điều đó ngụ ý rằng, hôn nhân không chỉ là một sự ràng buộc, nhưng nó là một thực thể mới, hay là một đời sống mới, một cuộc chung sống với nhau không thể tháo gỡ.[6] Sự giúp đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân, không chỉ trong những khi vui tươi phấn khởi, hay hạnh phúc nghập tràn, mà ngay cả những khi gặp khó khăn cũng như hoạn nạn nữa.
2. Đơn nhất và bất khả phân ly là gì?
Tự bản chất, tình yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly, "họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt" (x. Mt 19, 6; St 2, 24). Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua việc mỗi ngày trung thành sống lời cam kết hôn nhân, là trao hiến trọn vẹn cho nhau. Sự hiệp thông này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ bí tích Hôn phối đem lại sự hiệp thông trong Đức Kitô. Sự hiệp thông này càng thâm sâu hơn nhờ cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón nhận Mình Thánh Chúa.[7]
Phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương thân tương ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ tính đơn nhất của hôn nhân đã được Đức Kitô xác nhận. Đa thê là đi ngược với tình yêu vợ chồng, cũng như với sự bình đẳng giữa vợ chồng.[8]
Trong lịch sử, hôn nhân một vợ một chồng là điều rất cổ xưa nơi hầu hết các dân tộc. Thiên Chúa đã ấn định đặc tính đơn nhất của hôn nhân ngay trong việc sáng tạo loài người. Do đó một vợ một chồng không phải là quy luật của con người, nhưng là quy luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên luật này đã bị vi phạm rất nhiều lần, kể cả các tổ phụ trong thời Cựu ước.
Đức Kitô đã tái lập trật tự của thủa ban đầu, hôn nhân đã được trả lại tình trạng một vợ một chồng như lúc mới tạo dựng, và ban ơn thánh để giúp vợ chồng sống chung thủy với nhau: Câu chuyện của người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu trong Tin mừng Mátthêu cho thấy cái trật tự mới này:
Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ,  và Người đã phán: Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly (19, 3-6).
Nếu xét trên bình diện xã hội, hôn nhân là một kế ước giữa một người nam và một người nữ đã tự do ký kết và do đó, có giá trị trọn đời của đôi bạn; xét về bình diện đức tin Công giáo, hôn nhân là một bí tích Chúa Giêsu thiết lập và Giáo hội cử hành để thánh hiến tình yêu vợ chồng và giúp đôi bạn đảm nhận trách nhiệm của hôn nhân.
Cũng đừng quên rằng, thánh Phaolô đã dùng tình yêu hôn nhân như là dấu chỉ khả thị diễn tả tình yêu của Đức Kitô và Hội thánh. Trong thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh nhân viết: "Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh." (Ep 5, 31-31). Chính vì hôn nhân mô phỏng tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh, nên tình yêu đó bất khả phân ly.
Lý do sâu xa nhất đòi hỏi hai vợ chồng phải chung thủy chính là sự trung tín của Thiên Chúa với Giao ước, sự trung tín của Đức Kitô với Hội thánh. Nhờ bí tích hôn phối, hai vợ chồng được ban ơn để diễn tả và làm chứng cho sự trung tín ấy. Do bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân tiếp nhận một ý nghĩa mới sâu xa hơn.[9]
Giáo hội công bố và luôn tôn trọng tính bất khả phân ly của hôn nhân; vì thế, một khi hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp, Giáo hội không chấp nhận việc tháo gỡ, đó là điều đã được khẳng định trong Giáo luật điều 1141: "Hôn phối thành sự và hoàn hợp không thể bị tháo gỡ bởi một quyền bính nhân loại hay một nguyên do nào khác ngoại trừ sự chết".
Lý do thực sự và toàn vẹn của đặc tính bất khả phân ly ở đây là tính bí tích và sự hòa hợp của hôn nhân, cả hai biểu lộ sự kết hợp không thể chia lìa giữa Đức Kitô và Giáo hội. Nếu thiếu đi yếu tố hoàn hợp, hôn nhân có thể được tháo gỡ, dầu cho bí tích đã thành sự. [10]
Phần lớn các vụ giải hôn phối chỉ là tuyên bố hôn nhân vô hiệu chứ không phải là Tòa án hôn phối tháo gỡ hôn phối đã kết ước thành sự. Câu hỏi lớn được đặt ra: Tại sao Giáo hội lại không cho phép ly dị?
Có nhiều lý do: trước hết là Giáo hội phải trung thành với luật của Chúa, một khi Người đã ấn định tính cách bền vững của hôn nhân khi truyền lệnh "Điều mà Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly"[11]; thứ đến, Giáo hội muốn bảo đảm hạnh phúc cho đôi bạn và cho con cái của họ, bằng cách giúp đôi bạn giữ trọn lời đã Giao ước với nhau.


II. Sự thủy chung từ khóe nhìn Kinh thánh
1. Cựu ước
Tính đơn nhất và bất khả phân ly trong hai chương đầu của Sáng Thế ký
Trong Cựu ước ta thấy sách Sáng Thế để lại cho chúng ta hai trình thuật tạo dựng. Trình thuật xưa hơn (St 2, 18-24) Đức Chúa là Thiên Chúa phán:
Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Đức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra". Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.
Đoạn sách Sáng Thế này cho thấy: Thiên Chúa đã tạo dựng con người không phải để con người cô đơn mà để họ chung sống với nhau và chỉ khi có nhau, sống với nhau, con người mới thực sự là người và thực sự hạnh phúc. Tha nhân, ân nhân lớn nhất của ta, nhờ họ ta thành người. Không có họ, ta không thể thành người. "Con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó" (St 2, 18).
Việc phụ nữ được tạo dựng từ xương sườn người đàn ông cho thấy nam và nữ không chỉ là những người bình đẳng, cùng một giá trị, một phẩm giá với nhau mà còn bổ túc cho nhau nữa,[12] cùng nhau làm nên một tư tưởng, một tâm tình, một thể xác, một ước vọng tương lai và một niềm hạnh phúc.
Trình thuật muộn hơn (St 1, 26-28) cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng loài người theo hình ảnh Người là nam, là nữ để họ cai trị chim trời, cá biển. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của vị Thiên Chúa, duy nhất, có ngôi vị, một Thiên Chúa ở số nhiều, nên con người chính là một toàn thể có hai nửa bổ túc cho nhau. Và Thiên Chúa thêm: "Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy mặt đất, và hãy làm bá chủ nó" (St 1, 28). Thiên Chúa đã tạo dựng loài người là nam là nữ, lại còn cho họ quyền được sinh sản con cái, để từ nay loài người kết thành bộ ba: vợ - chồng - con cái. Vợ - chồng - con cái ấy, chính là hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, một Thiên Chúa tình yêu.
Nhưng tội đã phá vỡ điều tuyệt hảo nhất trong con người là tình yêu, đã phá vỡ hình ảnh Thiên Chúa, đã đảo lộn tương quan yêu thương giữa người với người. Tình yêu trở thành sự thèm khát vô độ của nhục dục. Tội đã làm cho tương quan phái tính thay vì tỏ lộ khuôn mặt Thiên Chúa, thì lại làm cho con người xa cách Ngài.[13]
Tính đơn nhất và bất khả phân ly trong sách Đệ Nhị Luật
Vợ chồng có được bỏ nhau không? Kinh Thánh ra luật "ngươi không được ngoại tình" (Xh 20, 14-17), và không cho phép ly dị trong một vài trường hơp. Chẳng hạn sách Đệ Nhị Luật minh định: đàn ông hãm hiếp một "thiếu nữ đồng trinh" thì phải "lấy nó làm vợ" và "suốt đời người ấy không thể rẫy nàng" (22, 28-29). Khi chồng vu khống cho vợ ông "những điều ô danh xấu tiếng" thì "thiếu nữ ấy lại là vợ nó không thể rẫy vợ ấy nữa"(Đnl 22, 13-19). Có những hạn chế, song vẫn cho phép ly dị khi chồng thấy vợ "không vừa mắt nữa", vì thấy nó có "điều gì thô bỉ" (Đnl 24, 1-2). Vì luật không nói rõ hơn nên đến thời Chúa Giêsu vẫn còn tranh cãi xem khi nào được phép ly dị (x. Mt 19).
Luật có ủng hộ một vợ một chồng không? Trước những lạm dụng quá đáng của các vua chúa quan quyền, luật cấm "không được có nhiều vợ, kẻo tâm hồn bị lầm lạc" (Đnl 17, 17). Luật "khoan thứ hơn với trường hợp hai vợ" (x. Đnl 21, 15). Dù lịch sử để lại những thực tế trái lệ thường trong Cựu ước, nói chung vẫn có một số Sách thánh vạch hướng ủng hộ chế độ một vợ một chồng. Thánh vịnh 128 dường như gợi ý theo chế độ ấy. Các chương đầu tiên của sách Khởi Nguyên giới thiệu lý tưởng này. Vì thế phải chờ tới Chúa Kitô, luật đó mới được dứt khoát: "Tôi nói thật cho các ông biết: ai rẫy vợ mà cưới vợ khác thì phạm tội ngoại tình" (Mt 19, 9).
Con cái có tầm quan trọng thế nào? Luật phân biệt con cái do người vợ chính thức sinh ra được thương hơn so với con cái của các người vợ khác. Luật bảo vệ quyền lợi của trưởng nam, dù trưởng nam do vợ bị ruồng rẫy sinh ra: "người đàn ông phải nhìn nhận đứa con của người vợ không được yêu là trưởng nam, mà chia cho nó hai phần sản nghiệp: nó là hoa quả đầu đời trai tráng của người ấy, nên nó được quyền trưởng nam" (Đnl 21, 17). Sách Dân Số đòi quyền cho con gái được quyền hưởng cơ nghiệp khi người chết không có con trai: "Tại sao cha chúng tôi lại bị xóa tên khỏi thị tộc của người, vì người không có con trai? Xin cho chúng tôi một phần đất giữa các anh em chúng tôi" (Ds 27, 4). Luật bảo hộ thai nhi, đòi phải bồi thường khi ẩu đả xô sát nhằm một người đàn bà có thai, làm cho nó sẩy thai mà không nguy cơ tính mạng, thì phải bồi thường bao nhiêu tùy chồng nó định (x. Xh 21, 22). Luật cấm giết con đầu lòng để hiến tế: "Mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại" (Xh 13, 13).
  Còn tình nghĩa vợ chồng thì sao? Sách Đệ Nhị Luật muốn tạo điều kiện cho vợ chồng phát triển yêu đương. Chẳng hạn, khi mới cưới vợ, luật miễn đầu quân… bất cứ dịch vụ nào trong một năm. Sách Macabê quyển thứ nhất nói: "Còn những người vừa mới xây nhà, cưới vợ hoặc mới trồng được vườn nho, hay những người nhát gan, thì hãy về nhà, đúng như Lề Luật dạy" (1Mcb 3, 56).
Tính đơn nhất và bất khả phân ly trong tư tưởng các ngôn sứ
Tình yêu chung thủy giữa vợ chồng làm lý tưởng cho nền luân lý hôn nhân. Êdêkiel chương 16 mô tả quan hệ giữa Israel và Thiên Chúa như cuộc hôn nhân của một người chồng đã cho vợ mình hết mọi sự, nhưng chỉ nhận được sự bất trung, phản bội. Hôsê từ chương 1 đến chương 3 sánh ví Israel như một cô gái điếm, được chồng cưới về làm vợ, nhưng cô lại bất trung. Chồng cô không bỏ cô, trái lại làm hết cách để đưa cô về, và sẵn sàng xóa hết mọi dấu vết ngoại tình hằn trên con người cô.
                Bởi thế, này Ta sẽ lấy gai góc chặn đường nó lại, sẽ dựng một bức tường để nó không thấy được lối đi. Nó sẽ chạy theo các tình nhân của nó mà không gặp, sẽ tìm kiếm chúng mà chẳng thấy. Bấy giờ nó mới nói: "Tôi phải trở về với người chồng đầu tiên của tôi, vì hồi ấy tôi sướng hơn bây giờ. Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình, nó sẽ là vợ Ta, Ta sẽ là chồng nó (Hs 2, 8-9; 16).
  Sách Tôbia chương 6 đến chương 8 cho thấy một cuộc hôn nhân hoàn hảo là cuộc hôn nhân trong đó người đàn ông được ràng cột với vợ mình trong tình yêu. Cũng nên kể thêm rằng văn chương Khôn Ngoan từ chương 25 đến chương 26 mô tả những nguy khốn và phần thưởng của cuộc đời nội trợ, và sách Cách Ngôn từ chương 5-7, 31 lại ca tụng những nhân đức một người vợ hoàn hảo và khuyên các người chồng đừng ngoại tình.
  Cũng trong chương trình cứu độ đó mà Thiên Chúa không muốn con người phải hư đi. Trái lại Thiên Chúa muốn họ chung thủy với Giao ước lúc ban đầu; nhưng khốn thay con người đã bất tuân luật Chúa. Do đó mà vấn đề ly dị đã và đang lan tràn trong nhân loại hôm nay.
2. Trong Tân ước
Hôn nhân là biểu hiện tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh
Sự so sánh giữa hôn nhân loài người với sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Giêsu và Giáo hội được mô tả trong thư gửi tín hữu Êphêsô:
Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh, thân thể của Người. Và như Hội thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng (Ep 5, 21-33).
Đó là điều thánh Phaolô muốn chúng ta nắm giữ khi ngài nói: "hỡi người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh" (Ep 5, 25-26), và thánh nhân thêm rằng: "người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng". (Ep 5, 31-32); (GLCG, số 1616).
Tất cả cuộc đời Kitô hữu mang ghi dấu ấn tình yêu của hôn nhân giữa Chúa Giêsu và Giáo hội. Ở đây, phép Rửa Tội, được xem như là mầu nhiệm hôn nhân, là một sự tắm rửa để dự tiệc cưới, tiệc Thánh Thể. Rồi cuộc hôn nhân Kitô giáo trở thành một dấu chỉ hữu hiệu, bí tích của Giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Vì nói lên và thông ban ân sủng của Giao ước, cho nên hôn nhân giữa hai Kitô hữu thật là bí tích của Giao ước mới (GLHTCG, số 1617).
Điều vừa trích dẫn ở trên, nhằm mục đích nói lên một thực tại trong đời sống hôn nhân, đó là ý nghĩa của sự đau khổ, được coi như Thập giá. Quả thực trong bất kỳ bậc sống nào, tu trì hay lập gia đình, đều có Thập giá mà Chúa trao gởi. Điều ấy không có nghĩa là chúng ta giơ tay đầu hàng khi đối diện với những đau khổ, thất bại hoặc điều bất hạnh xảy đến. Là người Kitô hữu chúng ta được kêu mời để không ngừng nỗ lực đem hết mọi cố gắng hầu bảo vệ duy trì hạnh phúc gia đình, ngay cả những khi gặp trục trặc. Đôi khi chúng ta cũng cần nhắc nhở chính mình là những bất hạnh ấy, cũng có thể là những cơ may cho chúng ta, nhằm điều chỉnh một vài sự sai trái của bản thân và cũng có thể trở thành trường dạy của tình yêu, giúp chúng ta khám phá ra những giá trị cao hơn của đời sống vợ chồng.
Giáo huấn của Chúa Kitô về vấn đề ly dị
Những tranh luận về vấn đề ly dị giữa những người Do Thái tạo thành cơ hội cho Chúa Giêsu trả lời cho vấn đề, và đưa ra quan điểm của Ngài một cách công khai; và Ngài thẳng thắn lên án cách mạnh mẽ những sự ươn hèn của các luật sĩ Do Thái và lập trường của chính họ về vấn đề ly dị.
Lời lẽ phát biểu của Ngài đã được ghi lại trong Tin mừng của thánh Matthêu 5,31tt; Luca 16,18 và thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi Giáo đoàn Côrintô (1 Cr 7, 10tt). Cũng như trong các cuộc thảo luận được thánh sử ghi lại (Mc 10, 2-12; Mt13, 3-9). Trong khi tranh luận với các Biệt phái, Chúa Giêsu đã hủy bỏ việc cho phép ly dị theo luật của Môsê, điều ấy đã được ban cho vì lòng chai đá của họ. Chúa Giêsu đã trưng dẫn hai đoạn sách thánh nhằm chống lại và phản đối sự việc Môsê đã chuẩn cho dân Do Thái được phép viết chứng thư ly dị. Theo Sáng Thế Ký, phụ nữ được coi như ngang hàng và bình đẳng về phẩm giá với nam giới. "Cả nam lẫn nữ Thiên Chúa đã dựng nên họ" (St 1, 27) "và cả hai thành một xương một thịt" (St 1, 21). Sự hiệp nhất bền vững giữa người nam và người nữ được Đức Kitô nói rõ khi nhắc lại ý định từ nguyên thủy của Đấng Sáng Tạo: "Họ không còn là hai; nhưng chỉ là một xương một thịt" (Mt 19, 6). Vì lẽ đó họ không được phân ly.
Đức Giêsu dứt khoát không cho ly dị, khi Người phán: "sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly" (Mt 19, 6). Tuy nhiên, có một trường hợp trừ gọi là hợp hôn nhân bất hợp pháp: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ tới chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình" (x. Mt 5, 32); hoặc "Tôi nói cho các ông biết, ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ và cưới vợ khác thì phạm tội ngoại tình" (Mt 19, 9).
Nhìn chung, Thiên Chúa không bao giờ muốn người ta ly dị, và chính Chúa Giêsu cũng thấy ly dị là rơi vào trong tình trạng bất toàn về luân lý. Tiêu chuẩn luân lý của Chúa Giêsu rất cao, lời mời gọi nên hoàn thiện của Ngài lại có tính cách mạnh, và Ngài thường trình bày giáo huấn của mình trong những tuyên bố quan trọng, tuyệt đối. Trong "bài giảng trên núi" chẳng hạn, Chúa Giêsu tuyên bố rằng nổi giận với anh em là một tội nặng, thèm muốn người khác thì đã là ngoại tình rồi, thề thốt là sai trái, và yêu thương kẻ thù là ngay chính. Không kém thẳng thắn, Ngài ra lệnh cho những kẻ theo Ngài phải làm mọi sự tốt lành cách kín đáo, phải từ bỏ của cải, tránh kết án tha nhân, và phải chặt đi những phần thân thể phạm tội (Mt 5-7). Nên cũng trong phong thái ấy, Chúa Giêsu đã giảng một lý tưởng về sự chung thủy trong hôn nhân, và Ngài đề nghị phải coi lý tưởng đó là nguyên tắc cho tất cả những ai muốn đáp lại lời mời gọi nên hoàn thiện của Ngài.
Quan điểm của thánh Phaolô về vấn đề ly dị
Thánh Phaolô nhấn mạnh lý tưởng của sự chung thủy, nhưng trong một số hoàn cảnh ngài vẫn cho phép ly dị. Một mặt, thánh nhân khẳng định: "Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ".
Mặt khác thánh Phaolô cũng thấy các cuộc hôn nhân giữa các Kitô hữu với những người không phải là Kitô hữu đầy những bấp bênh, nguy hiểm về mặt thiêng liêng, và ngài đã đánh liều đưa ra những ý tưởng này là nếu một anh hay một chị Kitô hữu lập gia đình với một người không tin mà người ấy muốn ly dị, thì cứ ly dị, và đương nhiên sẽ được tái hôn (1 Cr 6, 14-18). Lý tưởng vẫn là vợ chồng Kitô hữu phải là nguồn ơn cứu độ cho người phối ngẫu của mình nhưng đây có lẽ không phải là điều lúc nào cũng làm được.
Trường hợp ngoại lệ được ngài cho phép là một người  ngoại giáo mà họ muôn ly thân với người phối ngẫu của họ đã trở thành Kitô hữu. Trong trường hợp này, thánh Phaolô phán quyết như sau: người tín hữu không bị bó buộc phải duy trì đời sống độc thân.
Còn với những người khác, thì tôi nói chính tôi chứ không phải Chúa: nếu anh em nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng rẫy vợ. Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. Thật vậy, chồng ngoại đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ là ô uế, trong khi thật ra chúng là thánh. Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia, thì cứ bỏ; trong trường hợp đó, chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh em sống bình an với nhau! Chị là vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu được vợ? (1 Cr 7, 12-16).
III. Giáo huấn của Hôi thánh
1. Tính bất khả phân ly theo Công đồng Trentô
Bối cảnh của Công Đồng lúc bấy giờ là tự vệ, vì các ông Hoàng của nước Đức và Áo ra sức ủng hộ giáo phái Tin Lành nên gây sức ép với Giáo hội Công giáo. Vì thế trước quan niệm không công nhận các bí tích của anh em Cải Cách, Công đồng đã triệu tập để trả lời cho nhiều vấn nạn khác nhau, trong đó có bí tích Hôn nhân Kitô giáo.
Chúng ta thấy, đối với Công đồng Trentô, hôn nhân ngay từ khởi nguyên của loài người, như một mối dây duy nhất và bất khả phân ly giữa hai người khác phái:
Cơ sở lập luận Giáo lý của Công đồng được đặt nền trên một số đoạn Kinh thánh. Tính chất bất khả phân ly và bền vững của giây hôn nhân đã được chính con người đầu tiên của loài người tuyên bố dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, khi người ấy nói về Eva: "người này xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ mình, và kết hợp với vợ mình và cả hai sẽ nên một thân xác" (St 2, 23-24).[14]
Bởi vậy, hôn nhân là một thiện ích do ý muốn của Thiên Chúa một cách rõ ràng. Để chống lại mọi chủ thuyết Nhị nguyên, Giáo hội luôn bảo vệ chính sự tốt lành của hôn nhân vẫn còn sau tội nguyên tổ. Tuy nhiên, những khả năng đã bị thương tổn của mình, con người không thể sống một cách đúng đắn trong sự hoàn hảo của mình. Để ban cho vợ chồng sự trợ giúp cần thiết và làm cho hôn nhân trở nên một hành trình nên thánh, Đức Kitô đã làm cho hôn nhân trở nên một bí tích trao ban ân sủng. Chính Đức Kitô, như là tác giả và là Đấng kiện toàn các bí tích, qua cuộc khổ nạn, Ngài ban cho chúng ta ân sủng có khả năng làm cho hoàn thiện tình yêu tự nhiên, xác nhận sự hiệp nhất bất khả phân ly và thánh hóa vợ chồng.
Chúng ta cũng thấy, Công đồng đã tuyên bố một cách rõ ràng tính chất hiệp nhất của hôn nhân chống lại những sai lầm của Luther: "Kẻ nào nói rằng người Kitô hữu có quyền có nhiều vợ trong cùng một thời gian, không có thần luật nào cấm điều đó, kẻ đó phải bị trục xuất".[15]
Tính hiệp nhất và bất khả phân ly là những giáo huấn rõ ràng của Đức Kitô, mà chính Ngài đã giới thiệu những gì đã có sẵn nơi định chế nguyên thủy: “Sợi dây này nối kết và chỉ đan chéo hai người, như Chúa đã dạy một cách rõ ràng trong khi Ngài giải thích những lời lẽ của sách Sáng Thế, đã được Thiên Chúa linh hứng cho Ađam, và Ngài thêm: ‘vì thế họ không còn là hai, những là một xác thể’" (Mt 19, 6).
Và lập tức Ngài xác nhận tính chất bền vững của dây hôn nhân đã được Ađam nhìn nhận: "Vậy sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 6).
Tính bất khả phân ly của hôn nhân luôn được Giáo hội khẳng định, ngay cả trong việc truyền bá Tin mừng cho các dân tộc có tập tục ly dị. Như thánh Ambôsiô đã dẫn chứng:
Con hãy giã từ người vợ của con, như thế con có quyền làm điều ấy, và như thế con không mắc một tội phạm; con hãy phán quyết như thế, bởi vì luật của con người không cấm cản; nhưng còn luật của Thiên Chúa thì ngăn cấm điều đó.
Tính cương quyết ấy của Giáo hội, như nhúng ta đã thấy, đã mang lại hiệu quả tốt đẹp làm đổi thay những tâm thức, mà còn có cả những luật lệ dân sự của các dân nước đã lãnh nhận đức tin: trước là dân Rôma và tiếp đến là những dân trở lại. Tất nhiên là như thế tức là Giáo hội vẫn giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa, nhưng ngoài ra còn bày tỏ lòng yêu thương của mình đối với con người, trong khi giúp đỡ con người loại bỏ một cách sống làm hại đến chính mình, ngay cả khi con người làm ngược lại. Bởi vậy, Giáo hội với tình mẫu tử của mình cũng không bao giờ chấp nhận cho nhưng người ly dị tái hôn theo luật dân sự với một người khác, đã rước lễ, cũng như một người mẹ không bao giờ ngưng chiến đầu chống lại những gì nguy hại cho sức khỏe con cái mình.[16]
Ta có thể kết luận được rằng Công Đồng Trentô đã dạy cách trọng thể, bằng những cách thế ngắn gọn, nhưng đầy đủ, cái cốt lõi truyền thống Kitô giáo suốt cả mười lăm thế kỷ trung thành với Đức Kitô về hôn nhân: là định chế của Thiên Chúa và việc nâng lên hàng bí tích của một luật mới, ân sủng trao ban cho vợ chồng, tính đơn nhất và bất khả phân ly của hôn nhân, và sau hết, là năng quyền của Đức Kitô trao ban cho Giáo hội để bảo vệ hôn nhân hay đưa hôn nhân tới chỗ kiện toàn.
2. Tính bất khả phân ly theo Công Đồng Vaticanô II
Đối với Công đồng Vaticanô II thì mỗi cuộc hôn nhân đều là một Giao ước giữa vợ chồng và có một nội dung thiêng thánh, nghĩa là mang tính duy nhất, bất khả phân ly, và hướng về việc sinh sản - giáo dục con cái. Cũng vậy, sự trung thành vợ chồng cùng những lề luật liên hệ đến tính duy nhất và bất khả phân ly còn được xem như chính tình yêu vợ chồng, bởi điều đó như một đòi buộc tự nhiên. Và rồi tình yêu vợ chồng, theo Gaudium et Spet, còn có đặc tính duy nhất và bất khả phân ly. Thực ra, ngay trong kế hoạch tự nhiên của việc tạo dựng tình yêu vợ chồng cũng đã có những đòi hỏi ấy:
Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải trung thành với nhau và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly. (GS, số 48)
Cả hai tính chất ấy được xác định và chuẩn nhận nhờ bởi ân sủng: qua bí tích, Chúa Giêsu ở lại với vợ chồng "để hai người mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Người đã yêu thương Giáo hội và đã nộp mình vì Giáo hội". Và Công đồng dạy trong số tiếp theo:
Được bảo đảm và tín cẩn nhau và nhất là được chuẩn y bởi bí tích Chúa Kitô, tình yêu ấy trung thành bất khả phân ly giữa cảnh đời thăng trầm, và do đó loại bỏ hẳn mọi hình thức ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương thân tương ái trọn vẹn để nhờ đó, biểu lộ rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận (GS, số 49, 2).
Hôn nhân là một cộng đoàn của các ngôi vị, gồm một người nam và một người nữ, nhắm đến việc phát triển cộng đoàn lớn hơn của gia đình, và được phân định như thế nhờ hai yếu tố chính. Một đàng, mục đích nội tại và riêng biệt của mình là sinh sản và giáo dục con cái. Đàng khác, nguyên lý kết hợp hay hình thành, chính là tình yêu vợ chồng: tính lôi cuốn tự nhiên của người nam và người nữ, hối thúc họ đi đến kết hợp thân mật và bất khả phân ly, nhắm đến việc sinh sản và giáo dục con cái; khuynh hướng tự nhiên ấy được đón nhận và hợp thức hóa nhờ "Giao ước" hôn nhân, được bảo đảm và tin cẩn nhau…, tình yêu ấy trung thành và bất khả phân ly… (x. GS, số 49, 3).
Như vậy, trong cộng đoàn hôn nhân tình yêu cũng tạo nên một lợi ích chính yếu, ít ra như sự đòi hỏi, bởi vì trong thực tế tình yêu ấy có thể thiếu. Thực vậy, "sự liên kết vẫn là sự tận hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly"; và "tình yêu ấy bất khả phân ly giữa cảnh đời thăng trầm" (GS, số 49, 2).
Trong tự nhiên hôn nhân chỉ được hiểu cách trọn vẹn tương quan với Thiên Chúa. Là một định chế thánh thiện: cộng đoàn sự sống và tình yêu đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập và đặt định những quy định riêng để bảo vệ thiện ích và mục đích mà Ngài đã trao ban.
Như vậy, cho dù hôn nhân phát sinh từ sự ưng thuận cá nhân của vợ chồng, nội dung của hôn nhân vẫn không tùy thuộc sở thích của họ: “Bởi một hành vi nhân linh, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa” (GS số 48).
Ngoài ra, Gaudium et Spet cũng dạy rằng hai mục đích tự nhiên này đòi buộc hôn nhân phải có tính bất khả phân ly. Đòi hỏi tính hỗ tương giữa hai vợ chồng và ngay cả việc truyền sinh và giáo dục con cái nữa. Thật vậy để tăng trưởng con cái cần có sự giúp đỡ của cha mẹ kết hợp với nhau cách chặt chẽ trong bổn phận này, và đó cũng là lý do mà Đấng Tạo Hóa đã làm cho hôn nhân bất khả phân ly. Việc sinh sản con cái đòi hỏi cha mẹ đừng bao giờ cắt đứt dây liên kết vì sẽ gây phương hại đến con cái một cách bất công. Được đặt nền tảng trên sự tự hiến hỗ tương và vì lợi ích của con cái, tính chất bất khả phân ly cũng không tùy thuộc vào sự bền vững của tình yêu, cho dù nó đòi hỏi phải có.
Bởi vậy, tính chất bất khả phân ly được trình bày không như kết quả của những mệnh lệnh xã hội, nhưng do chính những đòi hỏi của tình yêu. Công đồng Vaticanô II một lần nữa tuyên bố hôn nhân bất khả phân ly, trong Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo hội Trong Thế Giới Ngày Nay, số 48 như sau: "Đấng Tạo Hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do một Giao ước hôn nhân, nghĩa là sự ưng thuận hôn nhân không thể rút lại".
Như thế, bởi hành vi nhân linh, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của lứa đôi của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau; những điều ấy hết sức quan trọng đối với sự tiếp nối nhân loại, sự phát triển cá nhân và phần rỗi đời đời của mội thành phần trong gia đình, quan trọng đối với phẩm giá, sự vững chãi, bình an và thịnh vượng của chính gia đình và toàn thể xã hội loài người. Tự bản chất định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi quy hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành của hôn nhân. Như thế bởi Giao ước hôn nhân người nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương một thịt" (x. Mt 19, 6); phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau một ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự kết hợp mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly.
Chúa Kitô ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu muôn hình ấy, một tình yêu xuất phát từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương Chúa Kitô và Giáo hội. Thực vậy, xưa kia Thiên Chúa đến gặp dân Người bằng một Giao ước yêu thương và trung thành, ngày nay Đấng Cứu Thế, Phu Quân của Giáo hội, đến cùng vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng mãi mãi yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Người đã yêu thương Giáo hội và nộp mình vì Giáo hội. Tình yêu vợ chồng đích thực được liên kết trong tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động cứu rỗi của Giáo hội, để hai vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, cũng như được nâng đỡ kiên cường trong nhiệm vụ cao cả làm cha mẹ.
Quả thực từ ý niệm tình yêu đời đời của Thiên Chúa, ngay từ khởi thủy khi Người thiết lập hôn nhân, thì hôn nhân đã bất khả phân ly. Chỉ có yếu tố "vĩnh hằng" này mới nói lên thực chất của hạnh phúc trong trong hôn nhân và ai ai cũng muốn như vậy khi họ kết hôn với nhau theo nghi thức Công giáo, và ngay cả hôn nhân tự nhiên nữa.
Thực vậy, hôn nhân bất khả phân ly là một ý tưởng cao đẹp và là ước mơ thâm căn của con người, nhưng sống chung thủy mãi mãi với nhau đến trọn đời thì không phải là chuyện dễ dàng, nhất là sống trong thời đại ngày hôm nay.
3. Giáo huấn của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Cũng như Công Đồng Vaticanô II hôn nhân là một Giao ước, duy nhất và bất khả phân ly, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong tông huấn Familiaris Consortio về đặc tính duy nhất và bất khả phân ly của đời sống hôn nhân. Tông huấn trình bày đó là tương quan giữa sự thật và lịch sử, giữa kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình. Mối tương quan được diễn tả tuyệt vời trong bài học luân lý về việc truyền sinh có trách nhiệm. Thánh Giáo Hoàng lặp lại lời của Đức Chân phước Phaolô VI:
Không bỏ bớt điều gì trong giáo lý cứu độ của Đức Kitô, chính là một hình thức trổi vượt của đức ái đối với các linh hồn. Nhưng điều đó cần phải luôn kèm theo bằng cả kiên nhẫn và nhân ái mà Đấng Cứu Thế đã nêu gương trong việc đối xử với con người.
Theo thánh Giáo Hoàng, cần có một tình yêu duy nhất và không thể phân ly đối với sự thật và đối với con người cụ thể được tạo dựng. Vì sự thật và chỉ trong sự thật con người mới có thể thực hiện sự tự do đích thực của mình. Điều đó rất có ý nghĩa và quan trọng nếu xét về "tính chất lịch sử" của con người, hay nói cách khác, về việc con người tự xây dựng ngày lại ngày với những lựa chọn tự do của mình. Như thế, con người "hiểu biết, yêu mến và chu toàn sự thiện luân lý bằng cách theo sát giai đoạn tăng trưởng". Đó là luật chung được Tông huấn Gia Đình áp dụng cho đời sống luân lý của vợ chồng bằng những lời lẽ rất rõ rằng:
Trong khung cảnh đời sống luân lý của họ, đôi bạn được mời gọi tiến bước không mệt mỏi, với niềm khát vọng chân thành và hữu hiệu muốn hiểu biết hơn về những giá trị đã được luật Thiên Chúa bảo đảm và cổ võ, và với ý muốn cho các giá trị ấy được đưa vào trong các chọn lựa cụ thể của họ một cách thẳng thắn và quảng đại. Tuy nhiên họ không thể coi luật đó chỉ thuần túy là một lý tưởng phải đạt đến trong tương lai, nhưng họ phải nhìn luật đó như một mệnh lệnh của Đức Kitô đang truyền cho họ phải nghiêm chỉnh vượt qua các trở ngại… con đường của các đôi bạn sẽ được trở nên dễ dàng trong mức độ mà các đôi bạn, một khi đã đầy lòng quý chuộng giáo lý của Giáo hội, đầy lòng tin tưởng vào ân sủng của Đức Kitô, cũng như được sự trợ giúp và đồng hành của các vị chủ chăn và toàn thể cộng đồng Giáo hội, họ biết khám phá và cảm nghiệm được giá trị giải phóng và nâng cao của tình yêu chân chính, mà Phúc Âm đem lại và lệnh truyền của Thiên Chúa nêu lên.
Như thế, chúng ta thấy sự hiệp thông vợ chồng là sự hợp nhất bất khả phân ly. Sự hiệp thông đầu tiên là sự hiệp thông được thiết lập và phát triển giữa đôi bạn: nhờ khế ước của tình yêu vợ chồng, người nam và người nữ "không phải là hai nhưng là một xác thịt", được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là sự trao hiến quàng đại cho nhau.
Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự nhiên của người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng nhờ ý chí của đôi bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau toàn thể dự phóng cuộc đời của họ. Chia sẻ với nhau điều họ có, và điều họ là: bởi đó, một sự hiệp thông như thế là kết quả và là dấu hiệu của một đòi hỏi sâu xa. Nhưng trong Chúa Kitô, Thiên Chúa nắm lấy cái đòi hỏi đó, củng cố nó, thanh luyện nó và đưa lên cao, bằng cách dùng bí tích Hôn phối mà đưa nó lên chỗ toàn diện: Chúa Thánh Thần được đổ tràn xuống khi cử hành bí tích, đã trao tặng cho đôi bạn Kitô hữu một sự hiệp thông mới, hiệp thông trong tình yêu là hình ảnh sống và thực sự duy nhất và hết sức độc đáo đang làm cho Giáo hội trở thành thân mình mầu nhiệm không thể phân chia của Đức Kitô.
Ơn của Thần Khí là luật sống cho đôi bạn Kitô hữu và đồng thời là hơi thở hướng dẫn họ để mỗi ngày phát huy được thể xác, tính tình, con tim, trí tuệ… hầu biểu lộ cho Giáo hội và cho thế giới thấy sự hiệp thông mới mẻ và tình yêu do ân sủng Đức Kitô ban tặng.
Một sự hiệp thông bất khả phân ly, sự hiệp thông vợ chồng là đánh dấu không ngừng do sự hiệp nhất, nhưng còn do tính chất bất khả phân ly của nó: "Sự kết hợp mật thiết, việc hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi họ kết hợp với nhau cách bất khả phân ly."[17]
Giáo hội có bổn phận căn bản như các nghị phụ của Thượng Hội Đồng đã làm là tái khẳng định thật mạnh mẽ giáo lý về sự bất khả phân ly của hôn nhân đối với những người ngày nay đang nghĩ rằng thật khó và hơn nữa thật không sao có thể liên kết với một người suốt đời. Đối với những người đang bị cuốn theo một nền văn hóa từ chối sự bất khả phân ly của hôn nhân và có khi còn công khai khinh bỉ việc đôi bạn sống cam kết trung thành với nhau, thì phải còn nhắc lại lời loan báo Tin mừng về tính cách dứt khoát của tình yêu vợ chồng này, là tình yêu đặt nền tảng và tìm được sức mạnh nơi Đức Kitô (x. Ep 5, 25).
Bắt nguồn từ trao ban trọn vẹn và đích thân của hai vợ chồng, cũng như do lợi ích của con cái đòi hỏi, sự bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định của Thiên Chúa đã bày tỏ trong mạc khải của Người: chính Người muốn hôn nhân bất khả phân ly và Người ban cho nó ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung thành mà Thiên Chúa đã có đối với con người và là tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ ra đối với Giáo hội.
Đức Kitô canh tân ý định nguyên thủy mà Đấng Tạo Hóa đã ghi khắc trong lòng người nam và người nữ và trong lúc cử hành bí tích Hôn phối, Người ban cho họ "một tấm lòng mới": như thế, không những đôi bạn có thể vượt lên khỏi cứng lòng, mà nhất là họ còn có thể dự phần vào tình yêu toàn diện và dứt khoát của Đức Kitô, là Giao ước mới và vĩnh cửu đã trở thành xác phàm. Cũng như Chúa Giêsu là vị "chứng nhân trung thành", là tiếng "có của những lời Thiên Chúa hứa" (x. 2 Cr 1, 20), và đó là sự thể hiện tối cao của lòng trung tín vô điều kiện mà với sự trung tín ấy Thiên Chúa đã yêu thương dân Người; thì đôi bạn Kitô hữu cũng được mời gọi để thực sự dự phần vào sự bất khả phân ly không thể thu hồi đang nối kết với Đức Kitô với Giáo hội là Hiền thê mà Ngài yêu mến đến tân cùng (x. Ga 13, 1).
Đối với đôi bạn Kitô hữu, ơn bí tích là một ơn gọi và đồng thời cuãng là một lệnh truyền phải trung thành mãi mãi, bất chấp các thử thách và khó khăn với một lòng quảng đại tuân theo ý Chúa: "điều Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly". (Mt 19, 6)
Trong Tông huấn về Gia đình, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh:
Ngày nay, làm chứng về giá trị cao quý của của sự bất khả phân ly trong hôn nhân và lòng chung thủy vợ chồng là một trong những bổn phận quan trọng nhất và cấp bách nhất của các đôi bạn Kitô hữu. Vì thế hiệp ý với tất cả cùng anh em của tôi cùng tham dự THĐGM, tôi ca ngợi và khích lệ đông đảo tất cả các đôi bạn, mặc dù găp những khó khăn to lớn, vẫn phải giữ và phát triển sự bất khả phân ly quý báu đấy: làm thế họ đã khiêm tốn quả cảm đảm nhận trách nhiệm đã trao cho họ là trở nên trong thế giới một dấu chỉ kín đáo và quý giá, khi đôi bạn thua trước cám dỗ nhưng rồi lại được đổi mới không ngừng dấu chỉ về sự trung tín không biết mỏi mệt của tình yêu mà Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô đã có đối với tất cả mọi người và đối với từng người. Và cũng còn phải đánh giá cao lời chứng của những người chồng, người vợ bị bạn đời của mình rẫy bỏ và nhờ đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo, vẫn không tái hôn: như thế, họ đã nêu lên một lời chứng đích thực cho sự trung thành mà thế giới ngày nay đang cần đến biết bao. Ví thế, các chủ chăn và tín hữu trong Giáo hội phải khích lệ và giúp đỡ họ được kiên trì trong hướng ấy...
Định chế hôn nhân không phải là một sực can thiệp ngang ngược của xã hội hay của quyền bính, cũng không phải là sự áp đặt một hình thức về bên ngoài, định chế ấy là một sự đòi hỏi từ bên ngoài trong kế ước tình yêu hôn nhân, được xác định công khai như Giao ước duy nhất và tuyệt đối để nhờ đó đôi bạn sống trung thánh trọn vẹn với ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa (số 11, 7).
Chính bản chất trao hiến vợ chồng cũng như vì lợi ích của con cái đòi hỏi như thế. Thật vậy:
Tính dục ấy được thực hiện một cách nhân bản đích thực, nếu nó là một thành phần làm nên tình yêu, trong đó người nam và người nữ tự hiến cho nhau cho đến chết. Sự trao hiến hoàn toàn theo thể xác sẽ giả dối nếu nó không phải là dấu chỉ và kết quả của sự trao hiến cả ngôi vị (TH Gia Đình, số 11, 5).
Chúng ta nhận thấy rằng Giao ước vợ chồng được nhìn như một hành động của tình yêu, tình yêu làm nên hôn nhân. Sự đòi buộc phải có tính bất khả phân ly này phát xuất từ chính bản chất của:
Việc sinh sản có trách nhiệm: việc này vì có mục đích sinh ra một hữu thể nhân linh nên nó vượt lên trên bình diện thuần sinh lý và bao gồm những giá trị này được phát triển điều hòa, cả người cha và người mẹ phải cùng đóng góp phần mình một cách thường xuyên và đồng thuận với nhau (TH Gia Đình, số 11, 6).
Bởi vậy, hiện tượng "yêu tự do" và khước từ hôn nhân chỉ là một sự thoái hóa về tình yêu chân thực của con người: chối bỏ sự chân thực của nó. Cần biết rằng sự đòi hỏi phải có một Giao ước bất khả phân ly công khai phát sinh cùng với tính dễ hiểu và chính sức mạnh từ quan niệm về tình yêu nhân vị và tình yêu hôn nhân.
Tình yêu vợ chồng là sức mạnh và sinh động cho cộng đoàn, cho hôn nhân và gia đình có bổn phận là phát triển cộng đoàn ấy, ngay trong đặc tính cụ thể của nó là tính hiệp nhất và bất khả phân ly. Thiên Chúa đã muốn rằng sự sống nhân loại được lưu truyền và tăng trưởng ngay trong cộng đoàn của các ngôi vị được thành lập từ gia đình và có nguồn gốc từ hôn nhân. Bởi vậy, bổn phận đầu tiên của gia đình do chính mục đích của nó đòi hỏi, đó là "trung thành sống thực tại của tính hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị." (TH Gia Đình, số 18, 1)
Điều kiện trước hết để phát triển cộng đoàn các ngôi vị mà hôn nhân  lập nên là sự kính trọng ý nghĩa của sự hiệp nhất và bất khả phân ly (FC 19-20). Cộng đoàn hôn nhân chỉ có thể  tăng trưởng trong sự kính trọng ý định của Thiên Chúa đã được Đấng Tạo Hóa khắc ghi trong tâm hồn người nam và người nữ, và được Đức Kitô kiện toàn bằng bí tích hôn nhân. Nhân tố của sự hiệp thông gia đình là cộng đoàn vợ chồng, phát sinh từ kế ước tình yêu vợ chồng  và làm tăng trưởng sự hiệp thông, "qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau" (số 19, 1). Bởi vậy, tính hiệp nhất là một đòi hỏi một cách sâu xa của con người mà Đức Kitô đã mặc lấy và kiện toàn bằng bí tích, theo hình ảnh kết hợp bất khả phân ly của Ngài với Giáo hội (số 19, 2). Nhưng sự hiệp thông vợ chồng cũng nói lên đặc tính bất khả phân ly của mình, được ăn rễ trong những đòi hỏi của sự trao hiến hỗ tương toàn diện của sự thiện ích cho con cái, và được kiện toàn nhờ ân huệ tình yêu trung thành một cách tuyệt đối của Đức Kitô với Giáo hội Ngài (TH Gia Đình, số 20, 1-3).


Kết luận
  Qua phần trình bày ở trên, chúng ta thấy được tầm quan trọng của tính đơn hôn và bất khả phân ly của hôn nhân. Ngay từ khởi nguyên tạo dựng, Thiên Chúa đã chúc phúc cho đời sống vợ chồng chung thủy bên nhau suốt đời. Qua các trình thuật Cựu ước và Tân ước, vấn đề càng ngày càng sáng rõ hơn, cụ thể là hôn nhân đã được chính Đức Kitô kiện toàn: "sự Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly". (Mt 19, 6). Chúa Giêsu cấm hẳn sự ly dị. Bởi thế, Giáo hội không có quyền cho phép ly dị mà chỉ cho phép ly thân với mong muốn sự đổ vỡ hôn nhân sẽ được hàn gắn lại. Có những trường hợp hôn nhân được giải gỡ là do bất thành sự ngay khi cử hành bí tích.
Thực vậy, tình yêu bền vững chỉ có được khi được quy hướng về tình yêu Thiên Chúa. Người chính là tình yêu. Người đã yêu thương, tạo dựng con người giống hình ảnh mình và nối kết họ trong đời sống vợ chồng, họ yêu thương nhau suốt cuộc đời, vĩnh viễn không bao giờ được phân ly khi hôn nhân đã thành sự. Người muốn mời gọi con người cộng tác với mình trong việc tạo dựng và làm cho thế giới này mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Nhưng con người vì quá lạm dụng tự do của mình nên đã phạm tội chống lại Thiên Chúa.
  Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, Người đã ban Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô đến để cứu con người, hòa giải con người với Thiên Chúa, bằng cái chết ô nhục trên Thánh giá mà không một lời oán than.Tình yêu vợ chồng chỉ có nghĩa nếu nó phản ánh tình yêu cơ bản xuất phát từ Thiên Chúa và là nguồn của mọi dâng hiến, mọi sự sống. Nếu con người được tạo dựng nên để yêu là bởi con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế để có được tình yêu bất khả phân ly, tình yêu của con người phải được quy chiếu nơi Đức Kitô, để được thánh hóa và biến đổi mỗi ngày, bằng cách kết hợp vơi Chúa qua việc sống Lời của Người và năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Chính Thánh Thể nuôi dưỡng tình yêu vợ chồng và làm cho hai người sống mãi chung thủy với nhau. Ngài sẽ nâng đỡ, ủi an, soi sáng cho hai vợ chồng biết tìm cách giải quyết những khó khăn và hàn gắn những đổ vỡ trong đời sống gia đình, mà nhiều khi tưởng chừng không vượt qua nổi. Người sẽ ban nhiều ân sủng để giúp cho hai vợ chồng chu toàn trách nhiệm đối với nhau và đối với con cái. Chỉ khi nào tình yêu được quy hướng về Đức Kitô thì tình yêu ấy mới đúng nghĩa và bền vững.


[1] x. Ep 5, 21-33.
[2] GS, số 48, 1; GLCG số 1646.
[3] GLHTCG, số 1974.
[4] Tông Huấn Gia Đình, số 20; GLHTCG số 1649.
[5] x. GS, số 48.
[6] x. Trần Mạnh Hùng, Đời Sống Hôn Nhân Việc Đổ Vỡ Trong Gia Đình, Học viện Dòng CCT/VN, tr.5.
[7] GLHTCG, số 1644.
[8] GLHTCG, số 1645; x. MV 49, 2; GĐ 19.
[9] Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN, Giáo Lý Hôn Nhân và Gia Đình, Nxb Tôn giáo, 2004, tr.22.
[10] x. Giáo luật, đ. 1142.
[11] Mt 19, 6.
[12] Nguyễn Văn Trinh, Bí Tích Học, Bí Tích Hôn Phối, tr.50.
[13] x. Théodule Rey-Mermet,  Sống Đức Tin Trong Các Bí Tích, tr. 218.
[14] x. Phạm Quốc văn. OP, Mình Với Ta Tuy Hai Mà Một, Giáo trình Bí tích Hôn Phối, Học viện Phaolô NVB, lưu hành nội bộ, tr. 29.
[15] x. Ibid, tr.30.
[16] Ramón Garca De Haro, Carla Rossi Espagnet, Hôn Nhân và Gia Đình, Trong Các Tài Liệu Huấn Quyền, Giáo Trình Thần Học Hôn Nhân, Lm. Augustinô Nguyễn Văn Dụ chuyển ngữ và bổ túc, Rôma, 2004, tr.91.
[17] x. Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo hội, Gaudium et Spet, số 48.

2 Nhận xét

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn