Việc phân định Thần khí trong Cựu ước


Thần khí Thiên Chúa tác động trên các ngôn sứ, 
và thủ lãnh của dân Israel một cách mạnh mẽ 
để biến đổi họ toàn diện, 
để họ thực hiện những kỳ công một cách bạo dạn, đầy uy lực; 
cho họ có khả năng đảm nhận vai trò và hoàn tất một sứ mạng, nhất là sứ mạng giải phóng dân tộc khỏi tay kẻ thù.

Nobertô Trần Y Dược, Tu đoàn TS Thánh Mẫu
Antôn Hoàng Anh Hà, Tu đoàn TS Thánh Mẫu


Trong Cựu ước, việc đồng hành thiêng liêng hay còn gọi là việc phân định Thần khí, là việc Thiên Chúa đồng hành với con người, hiện diện giữa lòng nhân loại và mặc khải chính mình cho nhân loại. Theo tác giả Guillet, các bản văn cổ xưa trong Cựu ước chưa nói tới sự phân định, bởi con người thời đó chịu ảnh hưởng của thần chính và thần tà rất mạnh mẽ và đối với người Dothái Thần khí tốt và xấu đều phát xuất từ Thiên Chúa. Thần khí tốt thì biểu lộ những hoạch định của Thiên Chúa, còn Thần khí xấu là ý muốn đưa kẻ thù đến chỗ diệt vong.[1]
Để đi tới sự trưởng thành và theo đúng Thần khí Thiên Chúa, con người được mời gọi sống trước nhan Thiên Chúa, lắng nghe tiếng Chúa qua tiếng nói lương tâm hay qua chính các vị ngôn sứ, kinh nghiệm về Ngài, tin tưởng cầu nguyện, để Thần khí Thiên Chúa hướng dẫn, suy xét khôn ngoan và can đảm thi hành. Trong Cựu ước, ý niệm về sự phân định chiếm vị trí hàng đầu trong các sách ngôn sứ, nổi bật lên có thể kể ra đây như các tổ phụ Ápraham, Môsê; các ngôn sứ Samuel, Giêrêmia, các vua Đavít, Salômôn…
Trong chương trình cứu độ và sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa luôn đi bước trước và đó chính là sự khôn ngoan của Người. Bằng nhiều cách, Thiên Chúa tỏ bày chương trình yêu thương của Người và mời gọi con người đáp trả. Để có thể hiểu thấu được kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trên bản thân, gia đình và dân tộc mình, dân Thiên Chúa trước hết phải có thái độ biết lắng nghe. Đó là bước đầu tiên, giúp con người nhận ra Thần khí Thiên Chúa nói với mình.
Để lắng nghe được Thần khí Thiên Chúa nói với mình, dân Israel phải đi vào hành trình đức tin, vì phía trước vẫn là chân trời vô định cần phải khám phá. Và việc lắng nghe đòi hỏi sự quy phục vô điều kiện đối với Thiên Chúa, là hiến dâng những gì là sâu thẳm nhất của mình. Hành vi đó được sánh ví như “lao mình vào vực thẳm”, hay “buông theo ân sủng” là tin tưởng tuyệt đối không do dự.[2]
Những mẫu gương lắng nghe trong niềm tin của các tổ phụ như: ông Ápraham đã ra đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa, dù phía trước là vô định, là mù tối. Ông đã vượt qua bao nhiêu thử thách từ Thiên Chúa, nhất là việc hiến tế đứa con một. Nhờ vào lòng tin sắt son của mình, ông đã được Thiên Chúa ký kết giao ước[3], được Thiên Chúa ban cho một dòng dõi lớn mạnh.
Để có thể lắng nghe lời Thiên Chúa dạy bảo, dân Israel đã khao khát, chờ đợi Thiên Chúa đến giải thoát dân khỏi quân thù. Dân Israel đã lắng nghe Thiên Chúa bằng cách tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa yêu thương, quan tâm đến những nỗi khổ của họ. Đặc biệt các tổ phụ và các ngôn sứ đã lắng nghe bằng cách gặp gỡ Thiên Chúa. Ông Mô-sê đã gặp gỡ Thiên Chúa trên núi Sinai để lắng nghe tiếng Chúa và truyền lệnh của Người cho dân.[4] Và ngôn sứ Khabacúc lắng nghe và canh chừng xem Chúa nói gì với mình. Còn dân riêng thì khát khao mong đợi Chúa như lính canh mong đợi hừng đông”.[5]
Trong thời điểm lắng nghe tiếng Chúa, nếu con người không có niềm tin mạnh mẽ để đối diện với những tủi nhục, phi lý, thậm chí là phi luân thì sẽ không thể lắng nghe được tiếng Thiên Chúa. Tổ phụ Ápraham đã phải đối diện với sự phi lý và phi luân khi Thiên Chúa hứa sẽ cho ông được đông đảo con cháu trong khi ông bà đều đã lão thành và Ngài còn ra lệnh cho ông giết con trai của mình, điều đối với lương tâm con người là điều phi luân.[6] Và tổ phụ Môsê cũng phải đối diện với những phi lý khi lắng nghe sấm ngôn Thiên Chúa. Tổ phụ Môsê từng là một con người nhát đảm, sợ sệt, ăn nói lắp bắp thế mà Thiên Chúa lại truyền dạy ông hãy lãnh đạo một dân cứng đầu cứng cổ trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn.[7]
Sau khi đã được Thiên Chúa mặc khải, con người lắng nghe và đáp trả, kết quả là con người có được kinh nghiệm về Thiên Chúa. Theo cha B. Maggioni, dân tộc Israel đã cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện và tác động trong lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh đó họ cũng cảm nghiệm một Thiên Chúa vắng bóng. Nhưng dù sao, Israel đã đụng chạm đến “mầu nhiệm Thiên Chúa”. Kinh nghiệm đời sống tâm linh của Israel là không cố gắng để kéo Thiên Chúa ra khỏi mầu nhiệm và đã chống lại cám dỗ giải nghi mầu nhiệm. Trải qua nhiều thời kỳ, dân Israel đã có những bản tuyên tín, nhưng không vì thế mà những câu hỏi như: Thiên Chúa ở đâu? Thiên Chúa đã làm gì?... vẫn không thôi tự vấn họ. Dân Israel cảm nghiệm về Thiên Chúa giải phóng họ, mà ra như ruồng bỏ họ.[8]
Kinh nghiệm của Israel về sự vắng mặt của Thiên Chúa khi họ phạm tội chống lại giới luật của Người và họ bị những tai hoạ do Thiên Chúa trừng phạt. Dân Israel đã kinh nghiệm về những thử thách của Thiên Chúa. Điều này đã được các ngôn sứ và các vịnh gia nhắc bảo: Thiên Chúa ẩn mình để cho con người khám phá. Những khoảng thời gian vắng mặt của Thiên Chúa, dân Israel trở nên rất đau khổ, họ như bị mất đức tin và bắt đầu bị cám dỗ đi tìm các thần ngoại, những thần mà họ có thể nhìn thấy và sờ chạm.
Nhưng dù sao, kinh nghiệm về sự vắng mặt của Thiên Chúa cũng giúp cho Israel nhớ đến kinh nghiệm về sự hiện diện của Người qua những biến cố vĩ đại, như việc Người dẫn dân qua sa mạc, từ những cuộc lưu đày trở về. Vì Thiên Chúa không hề bỏ rơi dân Người, sau những thử thách về sự vắng mặt, dân bị cám dỗ theo thần ngoại, Người giáng phạt, và dân quay trở về với Người. Qua những biến cố đã kinh qua, dân Israel nhận ra rằng Thiên Chúa mặc khải cho con người một cách tiệm tiến. Đó là một chuỗi kinh nghiệm sống động, Thiên Chúa dẫn Israel đi qua kinh nghiệm ấy, đồng thời soi sáng họ hiểu ý nghĩa những điều đó.[9]
Khi đã có được kinh nghiệm về một Thiên Chúa luôn luôn yêu thương đồng hành với họ, dân Israel cũng phải vận dụng sự khôn ngoan do Thiên Chúa ban để phân định được đâu là Thần khí Thiên Chúa, đâu là Thần khí ma quỷ.
Trong Cựu ước một số đặc tính khôn ngoan đã được mặc khải: thứ nhất: khôn ngoan thuộc về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Người là tác giả của khôn ngoan. Thứ hai: Thiên Chúa cho nhân loại tham dự vào sự khôn ngoan của Người, để con người biết phân định thánh ý Thiên Chúa. Đó là quà tặng của Thiên Chúa. Con người đón nhận sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa: “Từ thế hệ này đến thế hệ khác, đức khôn ngoan ngự vào những tâm hồn thánh thiện, biến họ nên bạn hữu của Thiên Chúa, nên ngôn sứ của Người”.[10] Thiên Chúa chỉ ban đức khôn ngoan cho những ai đáp lại sáng kiến của Người. Và “Người chỉ ưa chuộng những ai chung sống với đức khôn ngoan”.[11] Để hướng dẫn con người, Thiên Chúa đã ban đức khôn ngoan đồng hành với con người; nhờ đó, con người có thể đáp lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa.
Sự khôn ngoan được biểu lộ qua sự phán đoán đúng đắn, cung cách cư xử phù hợp…, chẳng hạn; ông Giuse được coi là người khôn ngoan khi giải thích các điềm báo trong giấc mộng, vua Salômôn được coi là vị vua khôn ngoan khi đã không xin gì ngoài sự khôn ngoan để phân biệt phải trái và hướng dẫn dân đi theo đường lối Chúa.[12]
Sự khôn ngoan là một yếu tố quan trọng trong tiến trình phân định Thần khí, vì nếu không suy xét thấu đáo và cầu nguyện xin ơn soi sáng thì con người có thể sai lầm khi phân định các loại Thần khí. Như mọi người đều biết, ma quỷ thì xuất hiện dưới hình dạng xấu xa ghê tởm. Thế nhưng, nó có thể đội lốt thiên thần ánh sáng, mơn trớn dụ dỗ ta làm điều xấu với những lời lẽ đạo đức, với mục đích dẫn con người vào cạm bẫy để phá rối hành trình tâm linh. Ngược lại, khi con người muốn làm việc tốt thì nó bày ra những vấn nạn để ngăn cản: “đừng hãm mình kẻo hại sức khoẻ”, hay “làm việc bác ái cũng là cầu nguyện rồi”…[13]
Làm thế nào để có thể phân định chính xác, đó là một vấn nạn được đưa ra từ thời Cựu ước, khi dân Israel muốn phân biệt đâu là ngôn sứ thật, đâu là ngôn sứ giả, đâu là ý của Thiên Chúa đâu là ý của người phàm. Tác giả Thomas Green đã cho chúng ta có cái nhìn tổng thể về một phân định khôn ngoan để phân biệt ngôn sứ thật với ngôn sứ giả như sau:
- Các lời của ngôn sứ loan báo tai hoạ thì có nhiều cơ may là đích thực hơn các lời ngôn sứ loan báo tin vui.
- Những lời ngôn sứ đích thực được xác nhận bằng việc loan báo “những dấu chỉ” đã xảy ra thực sự.
- Sứ điệp của ngôn sứ trung thành với đạo lý tinh ròng của Israel. Đây là tiêu chuẩn quan trọng.
- Đời sống chứng tá của vị ngôn sứ cũng có giá trị ngang bằng với những giáo thuyết ông dạy.[14]
Những người dân Israel khôn ngoan xưa có lẽ cũng đã dựa vào những tiêu chuẩn tương tự để phân định ngôn sứ thật và ngôn sứ giả. Thật trớ trêu, những người dân Israel khôn ngoan không có nhiều, bằng chứng là những ngôn sứ giả tiên báo những tin vui mừng, hoan hô, khen ngợi dân thì dân reo hò, hưởng ứng; còn những ngôn sứ thật nói những lời của Thiên Chúa, tiên báo những tai hoạ, khiển trách dân, thì họ bưng tai bịt mắt, xua đuổi vị ngôn sứ. Bởi thế, để giúp dân Israel phân định ngôn ngoan, các ngôn sứ thật đã phải chịu nhiều khổ sở, bắt bớ, thậm chí hy sinh cả tính mạng.[15]
Ông Giuse con tổ phụ Giacóp là một thí dụ điển hình cho việc suy xét khôn ngoan. Ông đã tìm kiếm sự khôn ngoan của Thiên Chúa thay vì tìm sự khôn ngoan của con người. Với mã đẹp trai vốn có, Giuse đã làm cho vợ của một viên quan mê mẩn, có ý định chiếm đoạt và rủ rê Giuse phạm tội với mình. Nếu theo sự khôn ngoan nhân loại Giuse đã rơi vào tay của bà, vì mấy khi được mời ăn “cao lương mỹ vị”. Thế nhưng, Giuse đã từ chối và bỏ chạy ra ngoài.[16] Tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa, trước mắt Giuse phải chịu hiểu lầm vì lời vu khống của bà vợ viên quan và phải tù đày, thế nhưng nhờ được Thiên Chúa đoái thương Giuse đã được cứu và trở thành nhân vật quan trọng cứu cả gia đình và dòng tộc khỏi phải chết đói.
Hồi kết của tiến trình phân định Thần khí một lần nữa đòi hỏi con người củng cố đức tin thêm vững mạnh, cầu nguyện với Thiên Chúa để Người soi sáng và cuối cùng là phải quảng đại, từ bỏ ý riêng mình để cho Thiên Chúa hướng dẫn đi vào con đường thánh ý Thiên Chúa một cách mau mắn và quyết liệt.

Việc phân định Thần khí của các nhân vật Cựu ước nổi bật lên với thái độ tin tưởng, việc cầu nguyện thâm sâu với Thiên Chúa và để người hướng dẫn. Các nhân vật như: Ápraham, Môsê, Samuel, Salômôn… là mẫu gương cho sự phân định này. Trước những biến cố lớn của cá nhân hay của dân tộc, các vị đều cầu nguyện, đàm đạo với Thiên Chúa, quyết tìm và gắn bó với ý Chúa theo chương trình của Người. Các vị đã kinh qua thất bại vì đã hấp tấp, chưa thuần thục trước dự định của Thiên Chúa.[17] Sau những lần thất bại đó, các vị đã rút kinh nghiệm và chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất là khám phá ý muốn của Thiên Chúa; vì chỉ ý muốn của Thiên Chúa mới đưa đến giải phóng và tự do đích thực.[18]
Đối với ngôn sứ Samuel, ông nổi bật lên ở thái độ biết lắng nghe tiếng Thiên Chúa, kiềm chế chính mình và cầu nguyện. Trước việc dân xin lập vua, ông đã cố gắng bỏ ý kiến mình, rút lui vào thinh lặng để phơi bày ý dân với Thiên Chúa. Qua đó, ông đã thực thi ý Thiên Chúa dù ông không thích điều đó. Với Samuel, chúng ta thấy nếu không đi theo đường lối Chúa, không thể lãnh đạo và phân định được. Sự thuần thục trước thánh ý Thiên Chúa đi liền với sự sẵn sàng nội tâm, sự liêm chính, cầu nguyện trong thing lặng và để cho Thần khí Thiên Chúa hướng dẫn thực thi Giao Ước của Người.[19]
Tổ phụ Ápraham là một mẫu gương vĩ đại về việc phân định đâu là Thần khí Thiên Chúa. Ông đã sống linh đạo xuất hành là cứ phải ra đi, rời khỏi chỗ mình đang đứng để đến nơi Chúa dẫn đi. Ápraham cũng từng suy nghĩ như chúng ta là, bà Sara đã già khó có thể sinh con, nhưng ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa bỏ đi suy nghĩ đó và chấp nhận bà có thể sinh con như lời Thiên Chúa hứa. Khi có đứa con thừa tự quý như vàng, một lần nữa ông tuân lệnh Thiên Chúa để tế lễ con mình. Qua những thử thách lớn lao ấy, ông dần dần hiểu ra rằng Thiên Chúa can thiệp vào đời sống con người. Ông Ápraham đã dám làm những việc phi thường chỉ vì tin vào lời Thiên Chúa, và ông cũng hiểu rằng làm theo lời Chúa thì cũng chẳng thiệt thòi gì. Ông Ápraham là cha của những kẻ tin, vì thế mà những gì Thiên Chúa hứa với ông Người đã thực hiện, đó là miêu duệ ông đông như sao trên trời, nhiều như cát bãi biển.[20]
Thần khí Thiên Chúa tác động trên các ngôn sứ, thủ lãnh của dân Israel một cách mạnh mẽ để biến đổi họ toàn diện, để họ thực hiện những kỳ công một cách bạo dạn, đầy uy lực; cho họ có khả năng đảm nhận vai trò và hoàn tất một sứ mạng, nhất là sứ mạng giải phóng dân tộc khỏi tay kẻ thù. Thần khí Thiên Chúa sẽ dùng họ để tiếp tục công trình vĩ đại từ lúc ra khỏi Aicập và trong hoang địa để đảm bảo sự hiệp nhất và cứu rỗi cho dân.[21] Thần khí Thiên Chúa hoạt động nơi các nhà lãnh đạo Israel để đảm bảo chắc chắn rằng các vị đó không những hoạt động chỉ nhân danh Thiên Chúa mà còn hướng dẫn họ giúp dân phụng sự Thiên Chúa cách đích thực trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói, qua trung gian các thủ lãnh, Thần khí Thiên Chúa đến và hướng dẫn lịch sử Israel.
Tạm kết
Ở bất cứ thời đại nào, việc phân định Thần khí đều cần thiết để có thể đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa. Trong thời Cựu ước, dân tộc Israel đã biết đến việc phân định Thần khí và cũng đi theo một tiến trình. Trước hết, phải có niềm tin nơi Thiên Chúa, lắng nghe tiếng nói của Người qua những sấm ngôn, qua những biến cố…; sau đó phải dành thời gian cho việc cầu nguyện đàm đạo với Thiên Chúa, kinh nghiệm về Người, suy xét cách khôn ngoan và cuối cùng là để Người tác động, hướng dẫn.
Đối với người dân Israel, việc phân định Thần khí Thiên Chúa đồng nghĩa với việc phân định ngôn sứ thật và ngôn sứ giả. Vì vị ngôn sứ là tiếng nói của Thiên Chúa, nếu họ phân định đúng ngôn sứ nào phát xuất từ Thiên Chúa thì chính khi nghe và thi hành lời vị ngôn sứ là chính khi họ đi theo lời Người dạy bảo.
Con đường tâm linh mà các thủ lãnh, ngôn sứ, dân tộc Israel đã đi với những biến cố in đậm dấu vết Thiên Chúa là những bài học tâm linh quý báu cho mỗi người chúng ta. Bài học đó chính là: Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng yêu thương, luôn đồng hành và dẫn dắt con người đi về bế bờ hạnh phúc. Tuy trong cuộc đồng hành, có những lúc con người xa đường lạc lối và phản bội Người, nhưng Người vẫn không bỏ mặc mà tìm cách lôi kéo họ về với Người.


[1] Xc. Phạm Quốc Văn, Trên Đường Emmaus, tr 62-63.
[2] Xc. Phạm Quốc Văn, Sđd., tr 57.
[3] Xc. St 15,1-18.
[4] Xc. Đnl 10,1-9.
[5] Xc. Tv 129.
[6] Xc. St 22,1-9.
[7] Xc. Xh 4,10.
[8] Xc. Phạm Quốc Văn, Sđd., tr 106.
[9] Xc. Nguyễn Hữu Quang, Hành Trình Đi Vào Đời Sống Thiêng Liêng, tr 64.
[10] Kn 7,27-28.
[11] Kn 7,28.
[12] Xc. 1V 3,4-14.
[13] Xc. Phan Tấn Thành, OP., Đời Sống Tâm Linh, tập III, tr 293.
[14] Xc. Phạm Quốc Văn, OP., Sđd., tr. 69. (Nguyên bản: Thomas Green, SJ., Sự Phân Định Thiêng Liêng, tr. 32-37.)
[15] Xc. Gr 28,1-17.
[16] Xc. St 39,7-15.
[17] Xc. Xh 2.
[18] Xc. Phạm Quốc Văn, Sđd., tr. 74.
[19] Xc. Phạm Quốc Văn, Sđd., tr. 74-75.
[20] Xc. Nguyễn Hữu Quang, Sđd., tr 53-54.
[21] Xc. Điển Ngữ Thần Học Thánh kinh, tr 75.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn