Can đảm dấn bước trong ơn gọi ngôn sứ


Trúc Bạch, OP
 Theo Kinh Thánh, ngôn sứ có nghĩa là người thay mặt Thiên Chúa để nói cho dân biết ý muốn của Chúa qua những biến cố của thời đại. Các ngôn sứ cũng không ngại tố cáo thói hư tật xấu của dân, từ đó, giúp dân sống trung thành với đường lối Chúa trong những hoàn cảnh đổi thay của xã hội. Dĩ nhiên, mọi Kitô hữu khi đã lãnh bí tích Rửa tội thì đều được thông chia chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô, nhưng theo nghĩa chặt, thì người sống đời thánh hiến mới thông chia sứ vụ ngôn sứ cách tròn đầy nhất. Để chu toàn sứ vụ, người tu sĩ phải sở đắc những nhân đức thiết yếu, trong đó nhân đức can đảm đóng vai trò rất quan trọng.
Trong bài này, người viết muốn dựa trên nền tảng học thuyết của thánh Tôma Aquinô về đức can đảm để làm rõ sự cần thiết của đức can đảm với đời ngôn sứ qua 3 khía cạnh: dám là ngôn sứ, dám làm ngôn sứ, dám trung tín trong ơn gọi ngôn sứ suốt đời.
1. Can đảm để dám là ngôn sứ
a. Dám lãnh trách nhiệm khó khăn
Theo Thánh Tôma Aquinô, người can đảm là người dám đương đầu với nghịch cảnh, với mối nguy gây cho mình sợ hãi, không phải là bởi một tham vọng hay sợ bị cười chê, nhưng bởi yêu mến điều tốt, nghĩa là vì lòng mến Chúa, mến chân lý, chứ không phải vì không biết sợ sệt.[1]
Các ngôn sứ vẫn biết sợ nhưng không để cho sợ hãi thúc đẩy đến việc không dám làm điều tốt và lý trí đã phân định. Khi được gọi để làm ngôn sứ, nhiều người đã sợ hãi trước những khó khăn, bách hại nên đã tìm cách thoái thác, chẳng hạn: Môsê đã viện cớ nói ngọng (x. Xh 4,10-11), Giêrêmia viện lý do còn trẻ chưa biết nói năng gì (x. Gr 1,6), Giôna thì lẳng lặng chạy trốn, Isaia thấy mình chỉ là một kẻ ô uế (x. Is 6,5)… Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn kêu gọi. Và nhờ ơn thánh và lòng mến Chúa thôi thúc, các ngôn sứ đã can đảm lãnh nhận nhiệm vụ khó khăn. Và từ khi nhận mình là ngôn sứ, nhận lãnh sứ vụ Chúa trao, thì cũng đồng nghĩa với việc họ chấp nhận những khó khăn và bách hại có thể xẩy đến bất cứ lúc nào.
Qua việc tuyên khấn ba lời khuyên Tin mừng, những người trẻ cũng đã thể hiện sự can đảm để dám “đi ngược dòng đời,” ngược lại với xu hướng của bản tính tự nhiên con người. Tuy nhiên, đó chỉ là điểm khởi đầu cho hành trình dâng hiến.
b. Dám tự ý thức để sống đúng với căn tính ngôn sứ
Người ta kể rằng ngôn sứ Amos là luôn ý thức sự khác biệt giữa ơn gọi của mình khác với những “ngôn sứ chuyên nghiệp” (x. Am 3,3-8);[2] ông xác định bản thân thi hành sứ vụ từ sự thôi thúc của chính Chúa trong tâm hồn, chứ không phải tìm một chỗ an thân, một công việc để kiếm sống như bốn trăm năm mươi ngôn sứ của thần Ba-an và bốn trăm ngôn sứ của thần A-sê-ra (1 V 18,19). Và nhờ sự xác tín bên trong, ông không chạy theo số đông để có cuộc sống an nhàn sung sướng, nhưng dám trở nên cô độc, dám khác người để theo một lý tưởng truyền rao Lời Chúa và kiên bền trong ơn gọi của mình. Nói cách khác, ông đã luôn can đảm ý thức sống đúng với căn tính của mình.
Trên bức tường của một đền thờ ở miền Bắc Hy Lạp có khắc một lời khuyên: “Hãy nhận biết bản thân mình”. Câu châm ngôn này rất sâu sắc, và đặc biệt có ý nghĩa với đời ngôn sứ. Có triết gia đã từng nhận định hẳn đây là lời khuyên răn của các bậc thần thánh. Tự ý thức về mình cũng là một dạng hành động. Người ta “không biết mình là ai,” không phải vì bản thân không có khả năng biết mà nhiều khi là vì bản thân không dám đối diện và muốn biết về chính mình trong thực tại. Chỉ những người với tinh thần can đảm, “dám thực hiện điều tốt cam go,” và “quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khắn trong đời”[3] thì mới dám đối diện với chính mình để điều chỉnh lối sống cho phù hợp với chân lý và lý tưởng ban đầu.
Trên thực tế xã hội, mấy thập niên gần đây, người ta nhận thấy sự sa sút trong tất cả các loại cơ chế đem lại cho con người một căn tính: làm một nhạc sĩ, một luật sư, một thầy giáo, một linh mục,… không phải chỉ là có một việc để làm, nhưng còn phải là một người nào đó, thuộc về một nhóm với những cơ chế xác định một “tư cách” thích hợp.[4] Người ta nói nhiều về “khủng hoảng căn tính” của đời thánh hiến, nhiều Linh mục, tu sĩ đã “không còn biết rõ mình là ai và giá trị mà họ theo đuổi là gì, nên họ bị những trào lưu xã hội lôi cuốn....”[5]
Quả thế, ngày nay nếu hỏi là tại sao lại muốn đi tu, thì đa số sẽ nhận được câu trả lời là để làm gì đó chẳng hạn như phục vụ người nghèo, người bệnh…. Rồi có nhiều tu sĩ chịu trách nhiệm cổ võ ơn gọi cũng tìm cách lôi cuốn người trẻ bằng cách giới thiệu những công việc của Dòng. Tuy thế, lịch sử đã chứng minh những khủng hoảng về căn tính của đời tu thường bắt nguồn từ sự thiên lệch do việc quá nhấn mạnh đến việc mà tu sĩ “làm” chứ không phải đến bản tính đích thực mà tu sĩ “phải là.”[6]
Tại sao như thế? Dưới nhãn quan của Tâm lý học, nỗi sợ chính mình cũng là một phần bản năng sống còn của con người. Thật thế, chỉ vì muốn bảo vệ “cái tôi” bé bỏng và dễ vỡ của mình mà người ta thường tự vệ bằng nhiều cách thức. Đó đó, đã có không ít người sống đời tu nhưng đã bị cuốn vào vòng xoay của lối sống thực dụng, để rồi mắc chứng bệnh “suy nhược thiêng liêng” làm cho lo lắng, quy về chính mình, bận tâm về sự sống còn của mình hơn về sứ mạng loan báo Tin Mừng; bận tâm về những chương trình phải duy trì, những công trình xây cất hơn là về tính ngôn sứ phải có trong mình; quan tâm tới sự an toàn xuất phát từ chỗ bám vào những cái đã quen từ xưa: “xưa nay vẫn làm thế,” hơn là đi tới những biên cương hiện sinh của xã hội. Do vậy, khi gặp khó khăn thì dễ bị khủng hoảng, cái mà người ta vẫn gọi là “khủng hoảng căn tính.”
Cuộc sống là những lựa chọn. Người tu sĩ trước hết phải xác định và thâm tín về căn tính của mình, xác tín mình được chọn gọi để làm ngôn sứ: Chúa đã gọi tôi trước khi tôi sinh ra...” (x. Gr 1, 5) và tôi đã đáp lại rằng: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe(1 Sm 3,9). Một khi đã dám can đảm xác định mình là một “tu sĩ”, một “ngôn sứ,” thì đó là khởi đầu cho những hành động đúng theo căn tính ấy, chứ không phải chỉ lo sửa chữa “bề mặt,” hoặc tiếc nuối hoài niệm về lịch sử oai hùng của quá khứ (mà dường như chẳng bao giờ quay lại), hoặc tự che mắt hay trốn chạy bằng một “chủ nghĩa hoạt động quay cuồng”… Những hành động đúng theo căn tính là lựa chọn những giá trị làm sao phải đi theo, phù hợp với bản chất, mục tiêu của lựa chọn căn bản ban đầu.[7]
Khi không dám xác định và kiên tâm đi theo lựa chọn ấy, người tu sĩ sẽ lấy những phương tiện làm mục đích, và khó lòng để đưa ra một mục đích chính xác cụ thể để đạt tới, khó phân biệt đâu là giá trị thực của sự việc và đâu là phương tiện để đạt được giá trị ấy. Rồi như một cái vòng luẩn quẩn, chính lối sống như thế đã tạo nên những giá trị ảo làm người ta quên mất giá trị đích thực về mình và cộng đoàn tu trì của mình, để rồi có cái kết như Hemingway nói: “Cái bi thảm của con người là không biết đi về đâu.” Đó chính là cái kết của “khủng hoảng căn tính.”
2. Làm ngôn sứ, nghĩa là làm dám đương đầu với nghịch cảnh
Theo Thánh Tôma thì dám đương đầu với nghịch cảnh còn khó hơn dám lãnh trách nhiệm khó khăn, vì “ai đương đầu với mối nguy hiểm hiện tại thì gặp nhiều khó khăn hơn là khi nó chưa đến.”[8] Cho nên người ta mới nói: “lửa thử vàng, gian nan thử sức,” nhiều người khi khó khăn chưa xảy đến, hoặc xảy đến với người khác, thì tự tin lớn tiếng, nhưng khi khó khăn xảy đến với chính mình thì lại không đủ can đảm để vượt qua mà thối lui. Hiện trạng ấy xảy ra ở nhiều bạn trẻ khao khát chọn đời sống thánh hiến, ước mong trở thành người ngôn sứ đích thực của Chúa, nhưng rồi khi đối diện với những khó khăn mà chọn lựa ấy mang lại, nhiều người đã không đủ can đảm để đối đầu, nhưng đã bỏ cuộc.
Môsê, Giêrêmia, Gioan Tẩy Giả và tất cả các ngôn sứ đều phải đương đầu với nhiều chống đối, đều phải chấp nhận việc bị người ta ghét bỏ, thậm chí là giết chết. Tại sao? “Sự thật thì mất lòng,” các ngôn sứ là những người ra đi để công bố Lời Chúa, Lời Sự thật, nên các ngài bị thù ghét và phải chịu nhiều cay đắng (x. Gr 11,18-12,5; 15,10-21…), từ phía những khủng bố do các vua cũng như hàng tư tế gây nên, có khi bị cả dân hiểu lầm và lãnh đạm. Tuy thế, các ngôn sứ vẫn luôn thể hiện một niềm xác tín nơi Thiên Chúa: “lòng con ở bên Ngài” (Gr 12,3); vẫn luôn trung thành với Thiên Chúa, vì chính Chúa là niềm hy vọng: “Lạy Đức Chúa, niềm hy vọng của Israel là Ngài” (Gr 17,13).
Một điểm chung của thời các ngôn sứ và thời nay là con người ngày càng lạc xa đường lối Thiên Chúa: những giá trị đạo đức truyền thống bị xói mòn và luân lý đang bị đảo ngược bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo là cả một hệ lụy thật là khủng khiếp.[9] Số lượng người trẻ tuyên bố rời bỏ Giáo hội Công giáo ở các nước Phương Tây ngày càng nhiều, báo chí đã đưa ra một dự báo đầy thất vọng: Kitô giáo sẽ biến mất ở Châu Âu trong 100 năm tới! Không chỉ có giáo dân, ngày nay, ở nhiều nơi, đời sống thánh hiến cũng gặp sự khủng hoảng, với những biểu hiện: thường xảy ra việc sáp nhập, liên kết, xóa bỏ các Dòng tu; nhiều khiếu nại lên bộ Tu Sĩ hoặc Tòa án Tối Cao xin hồi tục, thải hồi, sống ngoại vi; và đặc biệt rõ nét nhất là: số người sống đời sống thánh hiến ngày càng giảm sút nhanh chóng. Dĩ nhiên, một số ít sau khi suy nghĩ kỹ thì xác tín rằng mình không có “ơn gọi” thật sự. Tuy nhiên, phần đa vẫn là khó lòng trung thành với lời khấn hứa, không dám đương đầu với những đổi thay của xã hội, với những thử thách đầy chông gai cho người thực thi sứ vụ ngôn sứ. Nhưng đáng lưu ý rằng từ xưa, các ngôn sứ cũng đã chịu nhiều khó khăn thử thách. Tuy vậy, dù sống cô đơn, bị bách hại, nhưng các ngôn sứ vẫn luôn tỏ lòng trung thành với ơn gọi, và sự liên đới với dân tộc mình (x. Gr 14,17-22)[10], nhờ gắn bó với Lời và tương quan mật thiết với Chúa.
Lòng can đảm của các ngôn sứ là tấm gương cho những người sống đời thánh hiến hôm nay. Bởi thế, Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi mở ra Năm Đời Sống Thánh Hiến 2015, đã mời gọi những người tận hiến “đánh thức thế giới” bằng chính đặc tính ngôn sứ, tức là bằng đời sống chứng tá và lời rao giảng của mình. Đời sống chứng tá trước hết thể hiện ở lòng can đảm đối đầu với nghịch cảnh để trung thành với “Giao ước ban đầu,” với sứ vụ truyền rao Lời Chúa.
Cha Timothy Raclife, OP., trong một bài chia sẻ về ý nghĩa đời sống tu trì hôm nay,[11] đã ví xã hội hiện đại như hình ảnh một “con gấu”- con gấu mạnh mẽ tượng trưng sự đấu tranh sinh tồn, động lực thúc đẩy lịch sử tiến lên, đó là sự cạnh tranh “mạnh được yếu thua” trong lĩnh vực chính trị hay nền kinh tế thị trường. Đối lập với con gấu giận dữ cắn xé các đối thủ của nó là hình ảnh “chị đan sĩ” - tượng trưng cho những người sống đời thánh hiến. Chị đan sĩ trẻ, với cây đàn, đã can đảm hát lên một bài ca trong đêm tối dưới chân ngọn nến. Dù trong đêm tối, dù trong tuyệt vọng, người tu sĩ vẫn có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Chị đan sĩ là một chứng nhân, chị kể câu chuyện về một “Người” đã bị những kẻ mạnh quật ngã bởi những con gấu to lớn của thành Rôma và Giêrusalem, nhưng Người đó vẫn luôn sống mãi, trong khi những con gấu kia đã lụi tàn theo năm tháng… Đời sống thánh hiến ngày nay phải là thế, một đời sống có tính ngôn sứ, đời sống chứng nhân, dù bóng đêm của chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ, của những học thuyết sai lạc, của những phong trào bài trừ Giáo hội…, nhưng vẫn can đảm để dám trung thành ca hát Tin Mừng dưới chân ngọn nến “hy vọng.” Người tu sĩ phải can đảm để “dám chấp nhận đương đầu với gian nan vì biết đó là một điều tốt có thể đạt được nhờ hy vọng.”[12] Bởi vì ngôn sứ là người thấy tương lai xuất hiện ngay trong hiện tại (nhờ tin vào Lời và đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa), như ngôn sứ Khabacúc đã nói: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ôliu đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn… Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì Đức Chúa, hỉ hoan vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi!” (x. Kb 3,17-18).
3. Ngôn sứ là dám trung tín với sứ vụ suốt đời
Theo thánh Tôma, “kháng cự” là hành vi đặc thù của đức can đảm. Kháng cự còn ngụ ý một “thời gian dài chịu đựng. Và kiên trì trong một thời gian dài thì khó hơn là hành động chớp nhoáng.”[13] Sống đời ngôn sứ quả là khó khăn vì những thử thách không chỉ là ngày một ngày hai, mà dường như suốt cuộc đời - sống đời ngôn sứ là một cuộc chiến đấu liên lỉ suốt đời.
Có thể ví đời ngôn sứ như hình ảnh câu chuyện lịch sử hành trình 40 năm trường của dân Itrael trước khi vào được Đất Hứa, vùng đất chảy ra sữa và mật. Câu chuyện cho chúng ta thấy con đường qua hoang địa quả là gay go, thử thách. Hành trình ấy có nhiều nỗi sợ, có khi sợ hãi vì “vùng đất đáng sợ” của hoang địa (x. Đnl 1, 19), nhưng có nỗi sợ khủng khiếp hơn là: mất phương hướng và không cảm nhận được có Chúa đang đồng hành. Hoang địa là nơi thử thách, mà cũng là nơi dân Chúa được sinh ra, là nơi dân Chúa đã có lần bất trung và “lẩm bẩm kêu ca” vì không đủ can đảm và kiên nhẫn để phó thác vào Chúa (x. Xh 14,11). Để chu toàn sứ vụ, suốt cuộc đời, các ngôn sứ đã luôn liên lỉ chịu đựng những bách hại, khốn quẫn do người đời gây ra, cũng như chính những thử thách trong tâm hồn của chính bản thân người ngôn sứ. Có lẽ những bách hại bên ngoài nhiều khi lại không gây đau khổ cho bằng những dằn vặt bên trong: “Phần chúng con, đã bỏ mọi sự mà theo Thầy,” chúng con sẽ được gì? (x. Mc 10,29). Tại sao tôi theo Chúa, làm ngôn sứ của Chúa mà lại chịu khổ thế này? Thay vì được trọng đãi thì lại bị sỉ nhục, bị gọi là thằng “kinh hoàng tứ phía”? Chúa toàn năng mà thế à, tại sao người công chính thì khổ trong khi “Chúa không trả cho lũ kiêu căng xứng việc chúng làm?” Tại sao? Và biết bao câu hỏi tại sao khác nhiều khi dằn vặt người sống đời ngôn sứ, có khi khiến các ngài đau khổ đến mức muốn buông xuôi tất cả: “Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày... Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thấy cuộc đời qua đi trong tủi hổ?” (x. Gr 20,7-18).
Và có thể nói đó cũng chính là một cám dỗ muôn thủa của con người, cám dỗ muốn hiểu được Chúa, muốn Chúa hành động theo suy nghĩ, theo lôgic của bản thân mình. Quả thế, trong Kinh Thánh, khi nghe Chúa mặc khải về Bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ của Người đã nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Họ không thể chấp nhận những lời lẽ của Chúa, vốn nghịch với những suy tư của họ, và Kinh Thánh kể “từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (x. Ga 6,66)
Cám dỗ “đóng khung” Thiên Chúa theo ý mình, phải theo suy tư của mình là cơ sở để Fiedrich Nietzsche tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết,” và ông là kẻ “ám sát” Chúa bằng những lý lẽ đanh thép. Theo ông, tôn giáo chỉ là sự phóng chiếu từ cái tâm của con người. Người ta tin Chúa vì họ cần Chúa, không đủ can đảm để sống mà không có Chúa, họ cần một hy vọng về điều gì đó, họ cần một thứ thuốc để dìu dắt qua những đau thương của cuộc đời. Hoặc là người ta tạo ra Chúa để để biện bạch cho những hành động của mình, chẳng hạn như những hành động của nhóm Hồi giáo quá khích. Lý lẽ của Nietzsche có đúng chăng? Theo một khía cạnh nào đó thì ông có lý.[14]
Phải thừa nhận rằng về bản chất con người, ai cũng luôn cố gắng một cách vô thức để hiểu đường lối của Chúa theo suy nghĩ của mình, khớp với những nhu cầu riêng của bản thân. Các hiền nhân ngày xưa cũng đã tìm cách “hòa hợp giữa Thiên Chúa và sự khôn ngoan, niềm tin và lý trí,” để “giam hãm sự can thiệp của Thiên Chúa trong việc đòi hỏi tình hợp lý thường tình.”[15] Thông thường, chẳng ai muốn Chúa dắt đến những nơi mà mình không muốn, cũng như chẳng ai muốn chịu khổ và cũng không hiểu sao mình lại khổ. Mỗi người đều muốn tôn giáo nhưng phải theo những điều kiện riêng của mình.
Và rồi đến một lúc nào đó, người môn đệ Chúa sẽ bị rơi vào một “khoảng không,” cái mà các nhà thần bí gọi là “đêm tối của tâm hồn.” Đó là khi mà mọi nỗ lực nắm bắt Chúa qua trí tưởng tượng hay qua cảm xúc đều vô ích, kể cả mất cảm giác về sự hiện hữu của Chúa. Các hiền nhân xưa cũng từng thốt lên: “Quả tôi ngu dốt hơn mọi người… không hiểu biết chi về Đấng Thánh” (x. Cn 30,2-3). Ông Gióp thì nói: “Con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều kỳ diệu vượt quá sức con....” (x.G 42,3). Trong cuốn “Mother Teresa: Come be my light,” nhiều người đã sốc khi đọc thấy rằng Mẹ Têrêxa, vốn được xem như là thánh sống, vẫn nhiều lần cảm thấy khô khan, trống rỗng, và nhiều năm cuối đời không thể cảm nhận được sự hiện hữu của Chúa.... Trong hoàn cảnh ngày nay mà người sống đời thánh hiến đang sống, đặc biệt trong các nước Phương Tây, dường như cũng mang dấu ấn của sự hoang vu, sự khô khan thiêng liêng, sự im lặng của Thiên Chúa và thật không dễ nhận ra được là Người đang cùng đi với chúng ta (x. 23,8-9), đang hành động ngay trong cơn “khủng hoảng” và những lúc tối tăm.
Và ở cái khoảng không đen tối ấy, người tu sĩ cần can đảm để kiên tâm “nhẫn nại chịu đựng những nghịch cảnh mà không quỵ ngã vì buồn phiền.”[16] Bởi vì chính khi trống rỗng và bất lực về trí tưởng tượng để “trói buộc” Thiên Chúa, hạt mầm của Đức tin bắt đầu nảy nở và trưởng thành, một sự thanh luyện sâu xa khỏi những hình ảnh sai lầm về Thiên Chúa, để đến với Thiên Chúa của lịch sử, Đấng xem ra Ngài đang ngủ, nhưng vẫn cùng đi với chúng ta trên một con thuyền đang bị bão tố đẩy xô và dường như muốn vùi lấp (x. Mc 4,35). Khi đó, con người sẽ nhận “biết thân phận thụ tạo của mình và đón nhận sự dạy dỗ của Chúa” (x. Kn 15,33), và rồi Thiên Chúa xuất hiện và tạo khuôn cho con người “giống hình ảnh Người.” Lúc ấy, người tu sĩ can đảm, sẵn sàng để cho mình được Thiên Chúa làm lại, tái tạo, “như đất sét trong tay thợ gốm” (x. Gr 18,1-6).
Quả thế, chỉ khi nào con người dám can đảm gạt đi cái tôi tự soi mình, cũng như những “suy tư quy chụp,” thì khi đó Thiên Chúa sẽ đến gần con người trong một cách mà chúng ta không thể trải nghiệm được, để chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, chứ không tôn thờ chính mình và dám can đảm bước đi với tinh thần phó thác. Người ta kể về Mẹ Têrêxa, mặc dù qua những năm trường bị cám dỗ khô khan, và dường như không cảm nhận được sự hiện hữu của Chúa, Mẹ vẫn can đảm vượt thắng. Mẹ vẫn trung thành với các việc bổn phận, và dù có bận bịu gì thì mỗi ngày cũng chầu Thánh Thể một tiếng đồng hồ. Hoặc như thánh Rosa Lima, chỉ sống vỏn vẹn 31 tuổi đời nhưng đã phải trải qua một tình trạng khô khan nguội lạnh trong đời sống thiêng liêng kéo dài suốt 15 năm, mặc dù chị rất đạo đức, siêng năng việc nguyện gẫm kinh hạt. Mặc dù bước đi trong tối tăm mịt mù, như thể bị Chúa bỏ rơi, nhưng chị vẫn luôn can đảm liên lỷ chống trả, và can đảm phó thác. Nhờ thế, sau cùng chị đã được ban hào quang sáng chói, và trở thành thánh bổn mạng của toàn thể nhân dân Nam Mỹ.[17]
KẾT LUẬN
Sợ hãi và mất phương hướng là điều dễ gặp với người sống đời ngôn sứ. Các Tông đồ cũng đã từng như thế sau cuộc tử nạn của Đức Kitô (x. Lc 24,11), nhưng những âu lo của họ đã bị xua tan bởi niềm vui khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh (x. Lc 24, 41). Vậy thì những thử thách liên lỉ của đời thánh hiến, đời ngôn sứ dễ mang đến khủng hoảng, nhưng cũng nói cho chúng ta cơ may và sự khởi đầu của một cái gì mới. Điều quan trọng là phải có đủ can đảm để tiếp tục dấn bước, dù cho gian khó trường kỳ, để rồi luôn phó thác đời mình, để cho bàn tay yêu thương của Thiên Chúa như người thợ gốm nặn hình, tác tạo.
Vậy phải làm sao để thủ đắc được đức can đảm? Maya Angelou đã nói rất đúng: “Con người không phải bẩm sinh đã có lòng can đảm, nhưng ắt có tiềm năng từ khi cất tiếng chào đời.” Vấn đề là luyện tập thế nào? Chỉ cần gõ lên google là có biết bao nhiêu thông tin, kỹ năng, kỹ thuật, tất nhiên, xét dưới khía cạnh nhân bản. Trong cuốn sách: How Emotions Are Made: The Secret Life of the Brain, xuất bản năm 2017, nhà thần kinh học Lisa Feldman Barrett đã lập luận rằng cảm xúc được xây dựng bởi bộ não và định hình sự hiểu biết của chúng ta về môi trường xung quanh. Theo đó, con người không sợ hãi bởi điều đó đáng sợ, nhưng kinh nghiệm về sự sợ hãi đã khiến ta “tưởng” ta sợ. Trên cơ sở ấy, Koga Fumitake đã đúc rút ra nhận định rằng con người sợ hãi, thiếu can đảm là do suy nghĩ của bản thân, do mình tự chọn cho mình điều đó, và chúng ta có thể cải thiện bằng cách chèo lái suy nghĩ của mình. Điều này mới nghe qua thì thấy có vẻ hợp lý theo lôgic, nhưng thử hỏi làm sao con người có thể xóa bỏ hết những kinh nghiệm về những điều gây cho mình sợ hãi? Tự kỷ ám thị chăng? Có lẽ chỉ hiệu quả một phần nào. Nhiều tác giả khác của những cuốn sách khác về những chủ đề như: “tư duy tích cực,” “thay đổi thái độ sống,” “vượt lên chính mình…” đều có những phương pháp để rèn luyện đức can đảm, nhưng tựu trung, có thể nói rằng: sức con người có hạn, vì mỗi phương pháp đều có vẻ thuyết phục về mặt lý thuyết nhưng rồi luôn có những mặt hạn chế mà chỉ khi con người áp dụng mới thấy được.
Bởi thế, một khía cạnh luyện tập đức can đảm mà người Kitô hữu, và cách riêng là những người sống đời thánh hiến, dấn bước trọn vẹn theo ơn gọi ngôn sứ, không thể bỏ qua là cầu nguyện, bởi vì trong cuộc chiến đấu thiêng liêng, chúng ta không thể chỉ dựa vào sức riêng, mà còn phải dựa vào sức mạnh của Chúa. Nhất là người sống đời thánh hiến, chọn nếp sống theo sát Tin mừng bị thế gian coi như “điên rồ,” lại càng có nhiêu thách đố và khó khăn gấp bội. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa thì người tu sĩ có thể có đủ can đảm để lướt thắng sợ hãi, ngõ hầu chu toàn sứ vụ ngôn sứ và có thể đủ tự tin nói rằng: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng trợ lực cho tôi” (Pl 4,13).



[1] X. S. Th. II-II, q. 123, a. 6.
[2] X. Nguyễn Trọng Viễn, OP., Sứ vụ ngôn sứ hôm nay. Truy cập ngày 14/12/2019, http://nguyentrongvien. blogspot.com/2014/06/su-vu-ngon-su-hom-nay.html
[3] X. Fr. Phaolô Cao Chu Vũ, OP., Bs. Các Nhân Đức Luân Lý. Giáo trình Giảng dạy Trung Tâm Học Vấn Đa Minh, 2018, 197.
[4] X. Fr. Timothy Raclife, O.P., Ơn Gọi Tu Trì: Từ Bỏ Những Dấu Chỉ Căn Tính Quen Thuộc”. Truy cập ngày 25/11/2018, http://daminhvn.net /tai-lieu-jubile/on-goi-tu-tri-tu-bo-nhung-dau-chi-can-tinh-quen-thuoc-10087.html
[5] X. Nguyễn Văn Thái, “Mục Vụ Khởi Đi Từ Nhận Thức Về Mình”. Truy cập ngày 25/111/2018,  http://daichungvienvinhthanh.com/muc-vu-khoi-di-tu-nhan-thuc-ve-minh/
[6] X. Ngô Văn Vững, Đời Thánh Hiến theo Công Đồng Vaticano II, (Hà Nội: Tôn Giáo, 2008), tr 361.
[7] Tông huấn Vita Consecrata đã viết về những yêu sách của đặc tính ngôn sứ của đời thánh hiến: đứng đầu là sự kết hiệp thân tình với Chúa (số 74 ; 84); từ đó nảy sinh nhu cầu phải củng cố đời sống tâm linh, đặc biệt là khổ chế và cầu nguyện (số 38), và các phương thế tu đức cổ điển : đọc Lời Chúa trong tinh thần cầu nguyện (lectio divina), lãnh các bí tích đứng đầu là Thánh Thể, cử hành các giờ kinh phụng vụ, sám hối (số 94-95 ; 103).
[8] X. Fr. Phaolô Cao Chu Vũ, OP. Sđd, tr 201.
[9] X. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông Huấn Gia đình, số 1.
[10] X. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh – tập VII, Rôma, 2007, tr 30.
[11] X. Timothy Raclife, OP., Con Gấu Và Chị Đan Sĩ: Ý Nghĩa Đời Sống Tu Trì Hôm Nay. Truy cập ngày 30/11/2018, http://daminhvn.net/tai-lieu-jubile/con-gau-va-chi-dan-si-y-nghia-doi-song-tu-tri-hom-nay-10088.html
[12] Vì Đức can đảm điều khiển nộ dục theo lý trí. Trong các cảm xúc thuộc nộ dục, có “hy vọng,” và “thất vọng”. Đối tượng của hy vọng là một điều tốt cam go. X. Fr. Phaolô Cao Chu Vũ, OP. Sđd, tr 207.
[13] X. Fr. Phaolô Cao Chu Vũ, OP. Sđd, tr 201.

[14]X. Ronald Rolheiser, Of Nietzsche, Feuerbach, and Dark Nights of the Soul. Truy cập ngày 1/12/2018, http://www.lifeissues.net/writers/ron/ ron_549.html

[15] X. Giuse Phạm Quốc Văn, Một thoáng kinh nghiệm tâm linh trong Kinh thánh, 2016, tr 72.
[16] Liên hệ đến khía cạnh “kháng cự”, thánh Tôma kể đức “nhẫn nại” và “kiên trì”. X. S. Th. II-II, q. 136, a.4, ad.2.
[17] X. Hồng y Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng, Tài liệu Thư viện Trung Tâm Học Vấn Đa Minh, tr 342.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn