Gặp Gỡ Lời Chúa Trong Phụng Vụ

 Fr. Giuse Nguyễn Đình Chiến, op.

 Tông huấn Verbum Domini (VD) của Đức Bênêđitô XVI bàn về “Lời Thiên Chúa trong đời sống sứ mạng của Giáo hội” (30/09/2010) đã dành một

phần nội dung để nói về “Phụng vụ, nơi ưu tiên cho Lời Chúa” (các số 52-71). Phụng vụ được coi nơi ưu tiên cho Lời Chúa, vì đây nơi Lời Chúa được công bố, được lắng nghe, được cử hành một cách đặc biệt, đến nỗi thể được nhìn nhận như nơi chốn gặp gỡ giữa Thiên Chúa các tín hữu (VD 72)1. Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra cách ưu tiên nơi Phụng vụ, nhưng còn nét đặc thù trong cuộc sống Kitô hữu của họ nữa, một cuộc sống được xây dựng cách thiết yếu trên nền tảng Lời Chúa.


1 Ý tưởng này đã được đức Gioan Phaolô II đề cập trong Tông thư Vicesimus Quintus Annus (04/12/1988) nhân kỷ niệm 25 năm công bố Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosantum Concilium : “Phụng vụ ‘nơi’ ưu tiên để các Kitô hữu gặp gỡ Thiên Chúa, với Đấng Người đã sai đến, Đức Giêsu Kitô (x. Ga 17,3)” (số 7).


 

Sau khi trình bày tổng quát về “Lời Chúa trong Phụng vụ”, với điểm nhấn xoay quanh tính nền tảng của Lời Chúa đối với hoạt động Phụng vụ, Tông huấn còn chỉ ra cụ thể tương quan giữa Thánh Kinh với các tích (số 53). Xét như hệ quả của việc xem xét tương quan giữa Lời Chúa Thánh Thể, Tông huấn trình bày thêm “tính tích của Lời” (số 56) cũng như các khía cạnh cử hành liên quan đến việc phục vụ Lời (các số 57-60)2. Tiếp đến “Lời Chúa, tích Hoà Giải Xức Dầu bệnh nhân” (số 61), “Lời Chúa Các Giờ Kinh Phụng vụ” (số 62), “Lời Chúa Sách Các Phép”, cùng với “những gợi ý cho việc linh hoạt mục vụ” (các số 64-71).

Dựa trên những quan sát khởi đầu trên đây, phần trình bày của chúng ta trước hết muốn nhìn lại khái niệm “gặp gỡ Lời Chúa trong Phụng vụ” theo giáo của Công đồng Vaticanô II qua hai văn kiện : Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosantum Concilium (SC) Hiến chế tín về Mặc khải Dei Verbum (DV). Việc xem xét bước đầu như thế sẽ giúp chúng ta thấy được sự phong phú thần học Phụng vụ tuy không được nhấn mạnh cách sâu sắc dành cho Lời Chúa như DV ghi nhận, tầm quan trọng tính mới mẻ của Lời Chúa đối với Phụng vụ SC muốn nêu bật. thể nói, đây những khẳng định nền tảng, vốn trở thành điểm khởi hành cho những thực hành áp dụng của Giáo hội3, cũng như những triển khai liên quan của các văn kiện Huấn quyền sau đó4. Cấu trúc trình bày của chúng ta dưới


2 Những khía cạnh này liên quan đến “Thánh Kinh Sách Bài đọc” (số 57), “công bố Lời thừa tác vụ đọc sách” (số 58), giảng lễ cẩm nang giảng lễ (số 59-60).

3 Chẳng hạn OLM : Ordo Lectionum Missae, editio typica altera (Città del Vaticano : Libreria Editrice Vaticana, 1981) của Thánh Bộ Phụng Tự.

4 dụ : Văn kiện Giải thích Lời Chúa trong Giáo hội (1993) của Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng, hay Tông huấn về Lời Thiên Chúa trong đời sống

đây khi xem xét một đàng DV (Lời Chúa) Phụng vụ, còn đàng khác SC (Phụng vụ) Lời Chúa không đơn giản trình bày tương quan qua lại giữa Lời Chúa Phụng vụ, nhưng chính yếu nêu bật tầm quan trọng của Lời Chúa trong Phụng vụ, vốn nơi ưu tiên để các tín hữu thể gặp gỡ Thiên Chúa5.

1.- “Gặp gỡ Lời Chúa” trước Công đồng Vaticanô II

Khái niệm “gặp gỡ” cách chung gợi lên trong tâm trí chúng ta một sắc thái của sự gần gũi, tiếp xúc, thậm chí cả việc đối thoại. Vậy trước Công đồng Vaticanô II, tình trạng và cách thức các tín hữu gặp gỡ Lời Chúa diễn ra như thế nào ? Liệu đã thực sự một sự gần gũi, tiếp xúc, đối thoại không ? Chúng ta thử xem xét lược đây tương quan giữa Thánh Kinh dân Thiên Chúa qua các văn kiện của Giáo hội.

Trong tác phẩm La lecture chrétienne de la Bible (1957), Célestin Charlier đã tả một tình trạng đáng buồn về tương quan giữa Thánh Kinh dân Thiên Chúa trong Giáo hội vào thời phong trào Jansenism6. Thánh Kinh một sách bị cấm đọc đối với các tín hữu. Ngay cả các linh mục đạo đức cũng khuyên những người đến tham vấn họ không nên đọc toàn bộ Thánh Kinh, đặc biệt Cựu Ước. thực tế, rất khó gặp được một linh mục hay một tu đã một lần đọc qua toàn bộ Thánh Kinh.

 sứ mạng của Giáo hội Verbum Domini (30/09/2010) của đức Bênêđitô XVI.

5 Trong bài viết, chúng ta quy định một vài chữ viết tắt như sau : x. (xin coi), bt. (biên tập), Av. Vv. (Nhiều tác giả), Lm. (Linh mục). Việc viết tắt các sách Kinh Thánh đi theo quy tắc của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, x. Kinh Thánh : ấn bản 2011, bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ (Hà Nội : Tôn Giáo, 2017).

6 X. C. CHARLIER, La lecture chrétienne de la Bible (Livre de vie 46-47 ; Paris :

Éditions de Maredsous, 1957) 25.


 

Trong Tông hiến Dominici gregis custodiae (24/03/1564), Đức Piô IV đã xác định danh sách các sách bị cấm đọc. Theo đó, thể lệ thứ ba của Tông hiến chỉ cho phép những người “có học đạo đức” được đọc bản dịch Cựu Ước nhưng phải dưới sự giám sát của giám mục. Các tín hữu không được đọc các bản dịch Tân Ước của những tác giả đã bị kết án đích danh7. Đàng khác, thể lệ thứ bốn xác định rằng, mọi người thể đọc các bản dịch Thánh Kinh với sự giám sát của giám mục hay của các thẩm phán tòa tra cùng với ý kiến tích cực của cha sở hay cha giải tội8.

Đức Clêmentê XI, trong Hiến chế Unigenitus Dei Filius (08/09/1713), đã kết án nhng sai lầm ca Pasquier Quesnel, thủ lãnh của nhóm người theo Jansenius. Các mệnh đề bị kết án đều liên quan đến khẳng định rằng, việc đọc Thánh Kinh dành cho tất cả mọi người9.

Với Hiến chế Auctorem fidei (28/08/1794), Đức Piô VI đã tuyên bố những mệnh đề sai lầm của Thượng Hội đồng Pistoja (18-28/09/1786), trong đó mệnh đề ghi nhận việc


7 “Regula III : … Librorum autem Veteris Testamenti versiones viris tantum doctis et piis iudicio episcopi concedi poterunt, modo huiusmodi versionibus… Versiones vero Novi Testamenti ab auctoribus primae classis huius indicis factae nemini concedantur, …” (Denz 1853). Denz :

H. DENZINGER, Enchiridion symbolorum definitionum et declarationum de rebus fidei et morum (Freiburg : Herder, 371991). Chúng ta tham khảo thêm bản dịch Việt ngữ của Lm. Nguyễn Văn Hoà, O.P. : H. DENZINGER, Các tín biểu, định tín và tuyên bố của Giáo hội Công giáo trong lãnh vực đức tin phong hóa (Hà Nội : Tôn Giáo, 2019).

8 “Regula IV : “Cum experimento manifestum sit, si sacra Biblia vulgari lingua passim sine discrimine permittantur, …, hac in parte iudicio episcopi aut inquisitoris stetur, ut cum consilio parochi vel confessarii…” (Denz 1854).

9 Denz 2479-2485.


 

đọc Thánh Kinh dành cho tất cả mọi người. Lời kết án này cũng nhắc lại sai lầm của Pasquier Quesnel trước đó : “… sai lầm, táo bạo, gây xáo trộn sự yên ổn của các linh hồn, đã bị kết án nơi Quesnel”10.

Tiếp đến, Thông điệp Inter praecipuas machinationes (08/05/1844) của Đức Grêgôriô XVI nêu lên những sai lạc đã được đưa vào trong việc dịch Thánh Kinh theo ngôn ngữ bình dân do các dịch giả “ngu dốt lừa đảo”11 thực hiện. Trái lại, việc đọc các bản dịch Thánh Kinh trong ngôn ngữ bình dân theo Giáo hội chỉ dành cho người “mà việc đọc như thế sẽ giúp họ tăng trưởng trong đức tin đời sống đạo đức”, hay nếu muốn, mọi người chỉ thể đọc những bản dịch được Huấn quyền cho phép12.

Cùng một quan điểm như vậy, Đức Piô IX, trong Thông điệp Qui pluribus (09/11/1846), đã kết án các hi Thánh Kinh xảo quyệt liên quan đến việc dịch Thánh Kinh trái với những quy định của Giáo hội, giải thích Thánh Kinh sai lạc, cách riêng bắt ép mọi người đọc Thánh Kinh. Chúng ta gặp thấy những

 

10 “… falsa, temeraria, quietis animarum perturbativa, alias in Quesnellio damnata” (Denz 2667).

11 “… ut nihil proinde facilius contigat, quam ut in eorundem versionibus per societates biblicas multiplicatis gravissimi ex tot interpretum vel imprudentia vel fraude inserantur errores ; …” (Denz 2771). Những từ in đậm của chúng ta.

12 “… ut Biblia vulgari sermone edita non aliis permitterentur, nisi quibus illorum lectio ad fidei atque pietatis augmentum profutura iudicaretur… ut permissa porro habeatur lectio vulrarium versionum, quae ab Apostolica Sede approbatae, aut cum annotationibus desumptis ex sanctis Ecclesiae Patribus vel doctis catholicisque viris editae fuerint” (Denz 2772).


 

lời kết án được đúc kết như sau : “Các hội này… Đức Grêgôriô XVI… đã khiển trách, chúng tôi cũng muốn kết án chúng”13.

Chúng ta cũng không quên nhắc đến cái gọi chủ nghĩa hiện đại, vốn đã tác động không ít đến việc tiếp cận Thánh Kinh dành cho các tín hữu. Trong Thông điệp Pascendi Dominici gregis (08/09/1907), Đc Piô X đã ch ra nhng sai lầm liên quan của phong trào này, khi họ cho rằng, các sách Thánh Kinh chỉ những biểu hiện của tình cảm kinh nghiệm của các tác giả14, như vậy phủ nhận tính linh hứng của các sách đó15.

nhiên, trong trong Giáo hội Công giáo đã xuất hiện nhiều hình thức đối phó với chủ nghĩa hiện đại, trong đó có vài khuynh hướng mang sắc thái cực đoan16. Điều này đã vô tình tạo điều kiện cho chọn lựa đọc Thánh Kinh theo nghĩa thiêng liêng hơn theo nghĩa mặt chữ. Vả lại, nhiều nỗ lực

 13 “Quas societates… Gregogrius XVI… reprobavit, et nos pariter damnatas esse volumus” (Denz 2784).

14 X. Denz 3490.

15 “Quaerremus, quid tum de inspiratione ? Haec, respondent, ab impulsione illa, nisi forte vehementia, nequaquam secernitur, qua credens ad fidem suam verbo scriptove aperiendam adigitur. Simile quid habemus in poetica inspiratione ; …” (Denz 3491).

16 Như một dụ điển hình, chúng ta thể nói đến cái gọi Sodalitium pianum hay Sapinière, tạm hiểu một mạng lưới thông tin của Toà Thánh. quan này dưới sự điều hành của Đức cha Umberto Bugnini được sự tài trợ của Đức Piô X gồm 50 thành viên, cùng với nhiều cộng sự viên đến từ Châu âu. Họ nhiệm vụ báo cáo ngay lập tức với Toà Thánh bất kỳ người nào tưởng mang sắc thái chủ nghĩa hiện đại, chỉ bị nghi ngờ hay biểu hiện công khai.


 

giúp các tín hữu thể tiếp cận với Thánh Kinh cũng được thực hiện từng bước trong Giáo hội17.

Việc khuyến khích mọi tín hữu trước đọc sau học hỏi đầy đủ các sách Tin mừng, sách Công vụ Tông đồ, các Thư được Đức Bênêđitô XV công bố chính thức trong Thông điệp Spiritus Paraclitus (15/09/1920)18.

Với Thông điệp Divino afflante Spiritu (30/09/1943), Đức Piô XII đã khích lệ các giám mục trợ giúp nâng đỡ những hiệp hội đạo đức phổ biến các ấn bản Thánh Kinh, ngõ hầu các gia đình Kitô giáo thể sốt sắng tiếp xúc thường xuyên với Lời Chúa mỗi ngày. Hơn nữa, khi luật Phụng vụ cho phép, các vị hãy trình bày cho các tín hữu cách hữu hiệu Sách Thánh đã được dịch trong ngôn ngữ hiện đại. Đồng thời, các lớp học các cuộc hội thảo về Thánh Kinh cần được tổ chức, vì đó những cách thức cụ thể để các tín hữu thể gần gũi với Lời Chúa19. Những lời khích lệ này của Đức Piô XII đã

 

 


17 “Trong thời kỳ này, một phong trào phổ biến Thánh Kinh (bắt đầu với sách Tin Mừng) đang khởi động… Một hiện tượng như thế cho thấy sự ý thức (về Thánh Kinh) đã đạt đến mức trưởng thành… Proto Zambruni… là người phổ biến việc đào tạo cho các gia đình thường xuyên đọc sách Tin Mừng cách sốt sắng…” : G. GHIBERTI, “Lettura e interpretazione della Bibbia dal Vaticano I al Vaticano II”, La Bibbia nell’epoca moderna e contemporanea, bt. R. FABRIS (Bologna : Edizioni Dehoniane Bologna [EDB], 1992) 237.

18 “Quod autem in Nobis est, Venerabiles Fatres, Christifideles omnes auctore Hieronymo cohortari numquam desinemus, ut sacrosancta praesertim Domini Nostri Evangelia, itemque Acta Apostolorum et Epistulas cotidiana lectione volutare et in sucum et sanguinem convertere studeant” (EB 477). EB : Enchiridion Biblicum. Documenti della Chiesa sulla Sacra Scrittura, bt. A. FILLIPI E. LORA (Bologna : EDB, 1993).

19 EB 566.


 

thoáng cho thấy một tương quan nào đó giữa Lời Chúa và Phụng vụ.

Kể từ đây, người ta bắt đầu thấy xuất hiện ngày càng nhiều những nghiên cứu về tương quan giữa Thánh Kinh và Phụng vụ. Trong số đó, thể kể đến Đại hội toàn quốc Bible et Liturgie đưc tổ chc tại Strasbourg (25-28/07/1957)20, vốn đã nêu bật tầm quan trọng của tương quan này cũng như việc áp dụng mục vụ. Tương quan giữa Thánh Kinh Phụng vụ tiếp tục được triển khai rộng rãi sâu xa, rồi đi đến đỉnh cao với khẳng định rằng, chính qua Lời Chúa, chúng ta được sự hiện diện gần gũi của Chúa Kitô giữa chúng ta :

“Phụng vụ, đặc biệt Phụng vụ tích, với đỉnh cao Phụng vụ Thánh Thể, hiện tái hóa cách hoàn hảo các bản văn Thánh Kinh, Phụng vụ sắp xếp việc công bố (các bản văn Thánh Kinh) giữa cộng đoàn tín hữu đang tụ họp quanh Chúa Kitô để tiến lại gần Thiên Chúa. Chính khi ấy, Chúa Kitô ‘hiện diện trong Lời Người’, chính Người nói khi Sách Thánh được đọc trong Giáo hội”21.

Trên đây, chúng ta vừa quan sát thoáng qua tiến trình tiệm tiến cuộc “gặp gỡ” Lời Chúa từ phía các tín hữu, khởi từ sự cấm đoán nghiêm ngặt cho đến việc cổ tiếp xúc thường xuyên, đỉnh cao việc công bố Lời Chúa trong Phụng vụ. Như một sự tiếp nối, tiến triển, canh tân, chúng ta xem xét

 20 AA. VV., Bible et Liturgie : Troisième Congrès National du Centre de Pastorale Liturgique (Strasbourg, 25-28 juillet 1957) (Paris : Centre de Pastorale Liturgique, 1957).

21 PONTIFICIA COMMISSIONE BIBLICA, L’interpretazione della Bibbia nella Chiesa (Città del Vaticano : Libreria Editrice Vaticana, 1993) 110-111.


 

sau đây giáo của Công đồng Vaticanô II về tương quan giữa Lời Chúa Phụng vụ trước qua DV22  sau trong SC.

2.- Dei Verbum và Phụng vụ

Trong khóa VIII (18/11/1965), cùng với Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân Apostolicam actuositatem, Hiến chế tín về Mặc khải Dei Verbum đã được Đức Phaolô VI công bố, sau bao nỗ lực quan tâm đến quan niệm về Truyền Thống, tính đầy đủ của Thánh Kinh, khái niệm về linh hứng, cũng như phong trào Thánh Kinh trước Công đồng. Tầm quan trọng tính tích cực của DV, liên quan đến vấn đề đang bàn, hệ tại việc giúp các tín hữu gần gũi hơn với Lời Chúa, như đã được ghi nhận như sau :

“Bản văn này phải thúc đẩy các nhà thông thái nghiên cứu Thánh Kinh giúp tín hữu say Thánh Kinh… Việc khuyến khích đọc Thánh Kinh đã tạo nên một nền tảng

 22 Người ta nhận ra tầm quan trọng hàng đầu của DV trong Công đồng Vaticanô II, đồng thời cho rằng, lược đồ ban đầu của Hiến chế sẽ được bàn luận trước tiên. Thật vậy, trong Schemata Constitutionum et Decretorum de quibus disceptabitur in Concilii sessionibus, series prima (sub secreto) (Typis Polyglottis Vaticanis, 1962), lược đồ này được xếp ở vị trí thứ nhất với tựa đề Schema Constitutionis dogmaticae de fontibus Revelationis gồm 5 chương, trong khi lược đồ ban đầu của SC (Schema Constitutionis de Sacra Liturgia, với 8 chương) được xếp vị trí thứ năm. Tuy nhiên, nhận thấy những bất đồng ý kiến về nội dung của lược đồ De fontibus Revelationis, nên đức Gioan XXIII không muốn khởi đầu Công đồng bằng bản văn đầy phức tạp như thế, đã quyết định bàn luận De Sacra Liturgia trước, bởi các Nghị phụ sẽ dễ đồng thuận về vấn đề này hơn. Liên quan đến sự phức tạp trong tiến trình đạt tới bản văn cuối cùng của DV, x. Thánh Công đồng chung Vaticanô II, bản dịch Việt ngữ của Phân khoa Thần học thuộc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt, 1972) 479-482. Quan sát này cũng gợi ý cho chúng ta muốn trình bày đây DV trước SC.

vững chắc đưa các Kitô hữu xích lại gần nhau hơn, họ cùng lắng nghe một Lời Chúa”23.

DV 8

Bản văn DV 8, thuộc chương II của Hiến chế, đề cập đến việc lưu truyền mạc khải của Thiên Chúa. Khi tiếp nối các tông đồ, Giáo hội cũng “gìn giữ truyền lại” cho các tín hữu mọi thời “tất cả những thực chất của mình, tất cả những gì mình tin”, vốn được hiểu như Thánh Truyền. Giáo hội thực thi sứ vụ này không chỉ qua “giáo đời sống”, nhưng còn qua “việc phụng tự”.

Khi khẳng định như vậy, Hiến chế cách nào đó ám chỉ đến một thành ngữ cổ kính nói về tương quan giữa phụng tự và đức tin, như đã được Prospêrô Aquitanô (390-463) đề cập : legem credendi lex statuat supplicandi (quy luật cho cầu nguyện cũng quy luật cho đức tin)24. Theo đó, Công đồng tiên vàn muốn coi phụng tự như một locum thelogicum (nguồn tri thức thần học). Sau này (1992), Giáo hội sẽ khẳng định rõ hơn rằng : “Phụng vụ yếu tố cấu thành của Truyền Thống thánh thiện sống động” (CCE 1124)25.

DV 21

Bản văn DV 21 mở đầu chương VI “Thánh Kinh trong đời sống Giáo hội” được móc nối với các số liên quan kế tiếp (DV 23-25).


23 Thánh Công đồng chung Vaticanô II, 483-484.

24 X. Denz 246. Chúng ta cũng biết đến một công thức khác tương tự : lex

orandi, lex credenti.

25 CCE : Catechismus Catholicae Ecclesiae (Città del Vaticano : Libreria Editrice Vaticana, 1997) : “Liturgia elementum est constituens sanctae et vivificae Traditionis” (số 1124).


 

Trước hết, Thánh Kinh, xét như lương thực nuôi dưỡng các tín hữu, được đặt ngang hàng với Thánh Thể26. Với xác tín này, Công đồng cho thấy, Lời Chúa27 chiếm một vị trí ưu tiên trong Phụng vụ, cách riêng trong Thánh lễ.

“Giáo hội luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính Thánh Thể. Đặc biệt, trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng được nuôi dưỡng phân phát cho các tín hữu bánh sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa Thánh Thể”.

Tiếp đến, xét như Lời Chúa nói với các tín hữu trong sự gần gũi (“gặp gỡ trò chuyện”), Thánh Kinh còn chứa đựng tự thân sức mạnh tác động hiệu quả tích cực, khi đem lại sự nâng đỡ sức sống cho Giáo hội, khi giúp cho đức tin của các tín hữu được vững mạnh, khi nuôi dưỡng linh hồn đời sống thiêng liêng của họ. Công đồng còn trích dẫn hai đoạn Thánh Kinh làm nền tảng cho giải thích trên đây của mình :


26 VD 54 nhấn mạnh đặc biệt đến tương quan này khi sử dụng kiểu nói “sự hiệp nhất sâu xa giữa Thánh Kinh Thánh Thể”, đồng thời trình bày ở ghi chú 191 ngoài một vài tác phẩm một chuỗi văn kiện liên quan, chẳng hạn : SC 48.51.56 ; DV 21.26 ; AG 6.15 (AG : Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội Ad Gentes [07/12/1965]) ; PO 18 (PO : Sắc lệnh về chức vụ đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis [07/12/1965]) ; PC 6 (PC : Sắc lệnh về canh tân và thích nghi đời sống tu trì Perfectae Caritatis [28/10/1965]).

Về phần mình, A.M. Traccia, khi đề cập tương quan giữa Thánh Kinh và phụng vụ theo quan điểm của Công đồng Vaticanô II, cách riêng trong DV SC, đã khởi đầu bằng một đề xuất về sự song song thiết yếu giữa bàn tiệc Lời Chúa bàn tiệc Thánh Thể” trong DV 21. X. “Bibbia e liturgia”, Nuovo dizionario di liturgia, bt. D. SARTORE – A.M. TRIACCA (Cinisello Balsamo [Milano] : San Paolo, 1988) 166.

27 Để nói về “các sách được viết dưới sự linh hứng của Thánh Thần”, chúng ta sẽ sử dụng cách tương đương các hạn từ sau : “Sách Thánh”, “Lời Chúa”, “Cựu Ước Tân Ước”, Bài đọc (các Bài đọc) Lời Chúa, Bài đọc (các Bài đọc) Sách Thánh, cử hành (các cử hành) Lời Chúa, (x. OLM 2 [được kèm với ghi chú 6]).


 

“Bởi thế, những khẳng định sau đây hoàn toàn đúng về Thánh Kinh : ‘Thật vậy, Lời Chúa sống động hiệu quả’ (Hr 4,12), ‘có sức xây dựng ban gia tài cho tất cả những người đã được thánh hóa’ (Cv 20,32 ; x. 1 Tx 2,13)”.

Sức mạnh tác động hiệu quả kỳ diệu của Lời Chúa như vậy có thể được diễn tả qua kiểu nói của Is 55,10-11 :

“… 10 Như mưa tuyết rơi xuống từ trời không trở về (trời) nếu chưa làm ướt đất, chưa làm cho đất phì nhiêu đâm chồi, ngõ hầu đem lại hạt giống cho người gieo bánh cho kẻ ăn, 11 Lời Ta cũng vậy, một khi phát xuất từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta cách ích, nếu chưa thực hiện điều Ta mong muốn, chưa hoàn tất việc Ta sai làm”.

DV 23

Việc không ngừng nuôi dưỡng các tín hữu bằng Lời Chúa một trong những nhiệm vụ của Giáo hội. Để thi hành nhiệm vụ này, Giáo hội cần phải đào sâu sự hiểu biết về Thánh Kinh. Một trong những cách thức giúp Giáo hội đạt tới mục tiêu này nghiên cứu Phụng vụ, nghiên cứu các giáo phụ Đông phương Tây phương. Xem ra Công đồng đã nhìn thấy nơi Phụng vụ các giáo phụ như được ghi nhận trong các tác phẩm giải thích Thánh Kinh của các vị một nơi chốn đặc thù cho việc nghiên cứu trình bày Lời Chúa, nhằm góp phần cung cấp “lương thực Thánh Kinh” cho các tín hữu.

DV 24

Bản văn DV 24 cho biết rằng, thừa tác vụ Lời không chỉ bao gồm việc giảng thuyết của các mục tử dạy giáo lý, nhưng còn ám chỉ mọi hình thức giáo huấn Kitô giáo, trong đó bài giảng Phụng vụ phải được ưu tiên. Thừa tác vụ này được Lời Chúa nuôi dưỡng làm cho tiến triển. Thật vậy, thành


 

phần tất yếu của Phụng vụ (SC 52), bài giảng sẽ diễn giải các Bài đọc được rút ra từ Thánh Kinh, làm cho Lời Chúa trở nên ràng cụ thể trong bối cảnh cuộc sống hiện tại28. Hơn nữa, bài giảng còn “trình bày các mầu nhiệm đức tin những quy tắc của đời sống Kitô hữu” (SC 52).

DV 25

Khẳng định trên đây của DV 24 đưa đến hệ quả rằng, những người thi hành thừa tác vụ Lời trước các linh mục sau phó tế hay giáo viên được khích lệ gặp gỡ29 thường xuyên với Lời Chúa, qua việc siêng năng đọc ân cần học hỏi. Thực hành như thế sẽ giúp họ, khi truyền đạt Lời Chúa cho các tín hữu nhất trong Phụng vụ sẽ trở nên những người rao giảng hữu ích nhờ biết “lắng nghe” Lời Chúa trong lòng.

Riêng các tín hữu đặc biệt các tu được mời gọi năng tiếp cận với bản văn Thánh Kinh, không chỉ nhờ “sốt sắng đọc Thánh Kinh” hay “những sáng kiến thích hợp cũng như những phương thế khác”, còn qua Phụng vụ vốn chứa đựng Lời Chúa cách dồi dào, nhằm hiểu biết Chúa Kitô sâu xa hơn. Đàng khác, để thể gặp gỡ bằng lời với Thiên Chúa, họ cần đặt việc đọc Lời Chúa trong bầu khí cầu nguyện suy niệm.

Tóm lại, với một nhận thức sâu xa phong phú, DV cho thấy Phụng vụ nhiều chức năng đối với Thánh Kinh.

Bài giảng Phụng vụ hiện tại hóa Lời Chúa trong bối cảnh cụ thể của cuộc sống (tính sống động).

 28 X. PONTIFICIA COMMISSIONE BIBLICA, L’interpretazione della Bibbia nella Chiesa, 111.

29 Bản văn sử dụng kiểu nói “tiếp xúc không ngừng”.


 

Phụng vụ giúp các tín hữu hội thường xuyên tiếp xúc với Thánh Kinh : đây một chức năng hết sức đặc biệt.

Giữa Lời Chúa Thánh Thể một sự hiệp lực qua lại : cả hai cùng nuôi dưỡng Giáo hội ; cả hai cùng ban phát bánh sự sống cho các tín hữu. như thế, Lời Chúa không chỉ hệ tại việc “thông tri” (tính mạc khải) còn chứa đựng sự “hoạt động” nội tại (tính hiệu quả).

Sau cùng, một sự liên hệ sâu xa giữa Phụng vụ và Lời Chúa : Phụng vụ nơi ưu tiên cho Lời Chúa được giải thích. Nói cách khác, Phụng vụ dụng cụ giải thích Lời Chúa.

Những trình bày trên đây của DV các chức năng mà Phụng vụ dành cho Thánh Kinh chủ yếu nghiêng về khía cạnh giáo thuyết thần học, không quan tâm nhiều đến khía cạnh mục vụ, cử hành Phụng vụ một trong những yếu tố nền tảng. Cách riêng, với điểm kết luận sau cùng, chúng ta có thể tự hỏi : Phụng vụ sẽ đón nhận Lời Chúa như thế nào ? Bằng cách nào Phụng vụ sẽ giúp các tín hữu thể gặp gỡ cảm nghiệm Lời Chúa như Lời sống động, Lời cứu độ, Lời nuôi dưỡng hướng dẫn ? Khiếm khuyết này của DV thể nói như vậy được bổ túc phần nào bởi SC, cũng như bởi các văn kiện liên quan sau Công đồng30.

 

30 Chẳng hạn, như một bổ túc về khía cạnh mục vụ cho DV 24, văn kiện L’interpretazione della Bibbia nella Chiesa, 113-116 trình bày cụ thể về “thừa tác vụ mục vụ” theo ba loại chính : huấn giáo, giảng thuyết, tông đồ Thánh Kinh.


 

3.- Sacrosanctum Concilium và Lời Chúa

Kết thúc kỳ họp thứ hai của Công đồng Vaticanô II, cùng với Sắc lệnh về Truyền thông Inter Mirifica, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium được công bố vào ngày 04/12/1963. Đây là thành qu đầu tiên ca Công đng, sau nhiều cố gắng canh tân Phụng vụ, cùng với những thành tựu đạt được của phong trào Phụng vụ trước đó31 trong các nghiên cứu hàn lâm cũng như qua những dấn thân mục vụ.

Nhận xét đầu tiên chúng ta thể rút ra được khi đọc cẩn trọng SC : với sự quan tâm đặc biệt liên tục đến Thánh Kinh, Hiến chế ra như muốn nêu bật tầm quan trọng của Lời Chúa trong cử hành Phụng vụ. Quả vậy, trong khi SC 48 nêu bật sự liên kết chặt chẽ giữa Phụng vụ Lời Chúa Phụng vụ Thánh Thể, thì SC 7.24 lại hai số quan trọng trình bày về Thánh Kinh. Tiếp đến, SC 33 đề cập đến đặc tính giáo dục đức tin của việc đáp lại Lời Chúa trong Phụng vụ. Về phần mình, SC 35(1).51.92 dành cho Thánh Kinh một vị trí quan trọng trong cử hành Phụng vụ. Dưới đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu nội dung chí tiết của từng số đã được nêu lên.

SC 48

Để thể thấy được tầm quan trọng của Lời Chúa trong Phụng vụ, chúng ta bắt đầu với một khẳng định của Công đồng về tương quan chặt chẽ sâu xa giữa Lời Chúa Thánh Thể trong Phụng vụ, như đã được trình bày trong DV 21.


31 X. Chúng ta đọc thêm một trình bày vắn tắt về “phong trào phụng vụ” trong Thánh Công đồng chung Vaticanô II, 61. Đức Piô XII đã đề cập những quan tâm thao thức của phong trào phụng vụ trong Thông điệp Mediator Dei (20/11/1947). Thông đip này đưc coi là Hun quyn đầu tiên của Giáo hội trình bày về bản chất của phụng vụ, đồng thời nguồn mạch thiết yếu cũng như nền tảng về thần học phụng vụ.


 

Ngoài lời khích lệ các tín hữu cần tham dự Thánh lễ “cách ý thức, thành kính tích cực”, SC 48 còn lưu ý đến việc họ được Lời Chúa giáo huấn, bên cạnh sự dưỡng nuôi của Thánh Thể. Thật vậy, như được nhấn mạnh bởi SC 56, Thánh lễ gồm hai phần thiết yếu Phụng vụ Lời Chúa Phụng vụ Thánh Thể. Sự liên kết chặt chẽ giữa hai phần này “làm nên một hành vi thờ phượng duy nhất”32. Qua tính “giáo huấn” của Lời Chúa sự “dưỡng nuôi” của Thánh Thể, các tín hữu được hiệp nhất trọn vẹn với nhau trong Thiên Chúa.

SC 7

Bản văn SC 7 tả bốn cách thức hiện diện của Chúa Kitô trong cử hành Phụng vụ : đó “Hy tế Thánh lễ”, “các tích”, Lời được công bố, “Giáo hội cầu nguyện cùng ca hát”. Trong bốn cách thức này, cách thức thứ ba (Lời được công bố)

chúng ta quan tâm đây thành phần của thần học Tân Ước phù hợp với cái nhìn sâu xa về Thánh Kinh33 : Chúa Kitô hiện diện trong Lời Người, “chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội”.

 

32 Không dừng lại đây, sự liên kết chặt chẽ giữa hai phần được nói đến một lần nữa trong SC 106 : vào Chúa nhật, “là nền tảng cốt lõi của cả năm phụng vụ”, các tín hữu sẽ họp nhau để cùng nhau lắng nghe Lời Chúa tham dự Thánh Thể.

33 lẽ chúng ta được nhắc nhớ về thần học của Mc 16,20 (“Các Tông đồ đi rao giảng khắp nơi. Chúa cùng hoạt động với các ông, dùng những dấu lạ kèm theo xác nhận lời các ông rao giảng”), hay của Mt 28,20 (“[Anh em hãy] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. đây, Thầy cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”). Với một cái nhìn rộng lớn hơn, bản văn cách nào đó cũng đã đọc lại Ga 1,1-18 (Ngôi Lời giữa nhân loại) Is 55,10-11 (hiệu quả của Lời Chúa được thể hiện giữa con người).


 

Sự hiện diện của Chúa Kitô trong cử hành Phụng vụ, cách riêng trong Lời của Người được công bố, để thực hiện công trình cứu độ nhân loại : Người thánh hóa nhân loại tôn vinh Chúa Cha. Hơn thế nữa, công trình cứu độ này, vốn luôn được Lời Chúa nhắc nhớ công bố, sẽ đạt được ý nghĩa đầy đủ của nó trong cử hành Phụng vụ. như vậy, “việc cử hành Phụng vụ trở thành việc công bố Lời Chúa cách liên tục, đầy đủ, hiệu quả”34.

SC 33

Nếu SC 7 tập trung vào khía cạnh thần học của Phụng vụ, thì trái lại, SC 33 sẽ đào sâu khía cạnh huấn giáo mục vụ. Chỉ xoay quanh nội dung Lời Chúa được công bố như cách thức hiện diện của Chúa Kitô, Công đồng viết : “Trong Phụng vụ, Thiên Chúa nói với dân Người ; Chúa Kitô tiếp tục loan báo Tin mừng của Người35. Còn dân chúng đáp lại Lời Chúa qua tiếng hát lời kinh”. Qua việc đáp lại Lời Chúa như thế, đức tin của các tín hữu sẽ được đào sâu ; tâm trí họ quy hướng về Thiên Chúa ; ngõ hầu họ thể thờ phượng Người trong tinh thần, đón nhận dồi dào ân sủng.

 

34 OLM 4.

35 Thánh Âu-tinh, Sermo 85, 1 : “Tin Mừng miệng Chúa Kitô. Người ngự trên trời, nhưng vẫn không ngừng nói dưới đất” (x. thêm In Ioanis Evangelium Tractatus XXX, 1. Sách Pontificali Romano Germanico   câu : “Người ta đọc Tin Mừng, trong đó Chúa Kitô nói với dân chúng… để Tin Mừng vang lên trong Giáo hội, như thể chính Chúa Kitô nói với dân chúng” (x. V. VOGEL R. ELZE, bt. Le Pontifical Romano-germanique du dixième siècle. Le Texte, I [Città del Vaticano : Biblioteca Apostolica Vaticana, 1963] XCIV, 18, 334). “Khi Chúa Kitô đến, tức Tin Mừng, chúng ta hãy bỏ gậy, chúng ta không cần sự nâng đỡ của nhân loại nữa” (ibid. XCIV, 23, 335). Những trích dẫn này được lấy lại trong OLM 4, ghi chú 10.


 

Trên nền tảng đó, Công đồng đề nghị một quy tắc liên quan đến Lời Chúa cần được thực hiện trong việc canh tân Phụng vụ (x. SC 35,1 dưới đây). Cũng vậy, OLM 12 đã sử dụng trích dẫn “‘Thiên Chúa nói với dân Người’ qua Lời Người được trao ban trong Sách Thánh” như do cho việc giữ nguyên các Bài đọc đã được ấn định trong phần Phụng vụ Lời Chúa :

“Không được bỏ hay bớt các Bài đọc Thánh Kinh, cùng với những bài ca được lấy từ Sách Thánh, nghiêm trọng hơn, không được thay thế bằng những bài đọc không phải là Kinh Thánh”.

Còn trong OLM 44, SC 33 được trích dẫn để nói về phận vụ thiết yếu của các tín hữu trong khi lắng nghe Lời Chúa : họ cần đáp lại Lời Chúa bằng lời kinh, tiếng hát, cử chỉ36, bằng một niềm tin sống động ngời sáng (SC 47).

SC 24

Thuộc về phần “canh tân Phụng vụ”, bản văn SC 24 trình bày tầm quan trọng đáng kể của Thánh Kinh trong cử hành Phụng vụ qua hai dữ kiện.

Dữ kiện thứ nhất tầm quan trọng về thần học văn chương thần học nghi thức. Về thần học văn chương, Thánh Kinh nguồn mạch của các Bài đọc, các bài Thánh vịnh, bài giảng37. Trong khi đó, về thần học nghi thức, “các lời kinh, những


36 Với đức Phanxicô, tham gia vào việc cử hành qua cử chỉ lời nói một biểu hiện của nghệ thuật cử hành (ars celebrandi) (DD 51). Mỗi cử chỉ lời nói của cử hành phụng vụ, khi được thực hiện cách nghệ thuật, sẽ tạo nên chiều sâu nội tâm của mỗi nhân của mỗi cộng đoàn (DD 53). DD : Tông thư về việc đào tạo phụng vụ cho dân Thiên Chúa Desiderio Desideravi (29/06/2022).

37 X. OLM 11 (thành phần của Phụng vụ Lời Chúa). 12 (các Bài đọc Kinh Thánh). 13 (Bài Tin Mừng). 19 (Thánh vịnh đáp ca). 24 (Bài giảng).


 

lời nguyện, những bài phụng ca” đều được gợi hứng chủ yếu từ Thánh Kinh38. Thậm chí, cả “những động tác dấu chỉ trong Phụng vụ” cũng được Thánh Kinh đem lại cho một ý nghĩa39.

Tiếp đến, như hệ quả của dữ kiện thứ nhất, dữ kiện thứ hai nhấn mạnh đến việc “canh tân, phát triển, thích ứng” đối với Phụng vụ. Đòi hỏi này sẽ được đáp ứng qua việc nỗ lực trình bày sự ngọt ngào sống động của Thánh Kinh40, vốn đã được truyền thống Đông phương Tây phương chứng minh trong các nghi thức của họ.

SC 35(1).51.92a

Ba bản văn này bàn về tính phong phú của các Bài đọc Thánh Kinh trong Phụng vụ.


38 Nói cách khác, Thánh Kinh hiện diện trong “các lời kinh, những lời nguyện, những bài phụng ca”. Sự hiện diện này được ghi nhận hoặc dưới dạng trích dẫn hoặc theo kiểu ám chỉ. Về một dụ điển hình cho mỗi trường hợp (trích dẫn : bản văn 1333 của Sacramentarium Veronense ; ám chỉ : Lời nguyện Nhập lễ của Chúa nhật II Mùa Chay trong Missal of Paul VI), chúng ta thể xem phân tích chi tiết trong R. DE ZAN, “Bible and Liturgy”, Introduction to the Liturgy, bt. ANSCAR J. CHUPUNGCO,

O.S.B. (Handbook for Liturgical Studies I ; Collegeville, MN : The Liturgical Press, 1997), tr. 43-45.

39 X. OLM 6 : “… Corporis habitus, gestus et verba, quibus actio liturgica exprimitur et fidelium participatio manifestatur, …, sed ex Dei verbo et ex oeconomia salutis, ad quam referuntur, significationem accipiunt, …”.  40 Như một dụ, điều này được chứng minh qua ấn bản Litrurgia Horarum iuxta ritum Romanum (1971) do Thánh Bộ Phụng Tự xuất bản với một sc lnh ký ngày 11/04/1971. Trưc đó, sách đã đưc đc Phaolô VI phê chun vi Tông hiến Laudis canticum (01/11/1970). Tông hiến, khi trích dẫn SC 24, đã viết như sau : “Quo autem apertius haec orationis nostrae indoles elucescat, necesse est, ut ille suavis et vivus sacrae Scripturae affectus, quem Liturgia Horarum aspirat, in omnibus reviviscat, ita ut sacra Scriptura fons praecipuus totius orationis

christianae reapse evadat”.


 

Trước hết, do bản chất huấn giáo mục vụ của Phụng vụ, trong chiều hướng canh tân, Công đồng yêu cầu tu chỉnh việc đọc Thánh Kinh sao cho “dồi dào hơn, đa dạng hơn, và thích hợp hơn” (SC 35,1). Việc tu chỉnh như thế nhằm cho thấy sự nối kết chặt chẽ sâu xa giữa nghi thức lời đọc trong các cử hành Phụng vụ41. Việc công bố Lời Chúa chứa đựng nghi thức ; ngược lại, nghi thức không thể được hiểu nếu không tương quan với Lời Chúa.

Về Thánh lễ, việc đọc những phần chính yếu của Thánh Kinh trong một vài năm nhất định cần được lưu ý, ngõ hầu phần Phụng vụ Lời Chúa trở nên phong phú thêm đối với các tín hữu, nhờ đó, họ được nghe đọc những nội dung quan trọng của Thánh Kinh (SC 51)42.

Liên quan đến Kinh Nhật Tụng : “Việc đọc Thánh Kinh cần được sắp xếp sao cho những kho tàng Lời Chúa thể được tiếp cận dễ dàng trọn vẹn nhất” (SC 92a)43.

Tóm lại, ngoài những trình bày thần học về Thánh Kinh trong Phụng vụ (x. Các số 7.24.48), SC còn lưu ý nhiều đến chiều kích mục vụ canh tân (x. Các số 24.33.35.51.92a). Qua đó, chúng ta nhận thấy nỗ lực của Công đồng để giúp các tín

 

41 Theo ghi nhận của OLM 59, yêu cầu tu chỉnh việc đọc Thánh Kinh (SC 35,1) lưu ý đến việc đọc những phần chính yếu của Thánh Kinh trong vài năm nhất định (SC 51) đã được thực hiện.

42 Cần lưu ý rằng, trong phụng vụ Rôma trước cuộc canh tân của Công đồng Trentô, nhìn chung chỉ hai Bài đọc trong Thánh lễ, các Bài đọc được sắp xếp cho chu kỳ một năm.

43 Yêu cầu này đã được thực hiện qua ấn bản Litrurgia Horarum iuxta ritum Romanum (1971). Việc sắp xếp các Bài đọc Kinh Thánh được nói các số 140-158 (“De lectione sacrae Scripturae”) trong Institutio generalis de Liturgia Horarum (11/04/1971) của Thánh Bộ Phụng Tự.


 

hữu thể gặp gỡ Lời Chúa thường xuyên hơn dễ dàng hơn trong đời sống đức tin.

Trong khi chờ đợi việc thực thi những đề xuất canh tân trên đây, Công đồng đặc biệt nhắc nhớ các tín hữu rằng, họ đang được chính Lời Chúa hướng dẫn. nhắc nhớ này không những ám chỉ việc học hỏi Thánh Kinh Giáo hội qua các giám mục phải chăm lo cho các tín hữu (DV 25), nhưng còn khích lệ họ về phía bản thân tích cực lắng nghe, suy gẫm, cầu nguyện với Lời Chúa (x. SC 109).

4.- “Gặp gỡ Lời Chúa” trong Phụng vụ như tương quan giữa Thánh Kinh Phụng vụ

Công đồng Vaticanô II, qua hai hiến chế DV SC, đã cho chúng ta lời giải thích cách hiểu mới mẻ về tương quan giữa Thánh Kinh Phụng vụ. Cụ thể, DV nỗ lực trả lời cho những vấn đề thần học giải thích liên quan đến Thánh Kinh. do vậy, DV không tập trung nhiều vào Phụng vụ, trừ một vài trường hợp liên quan phụ thuộc. Trái lại, SC dành cho Lời Chúa được công bố trong Phụng vụ một sự tôn kính sâu sắc và ưu tiên. bởi vậy, SC không những cổ sự tham gia tích cực của dân Thiên Chúa trong cử hành Phụng vụ, còn đề cao những quan tâm canh tân Phụng vụ từ phía Công đồng44.

Qua DV SC, tương quan qua lại giữa Thánh Kinh Phụng vụ hệ tại những chức năng độc đáo của mỗi thực tại : một đàng, Lời Chúa “chuẩn bị” cho Phụng vụ (SC Lời

 

44 OLM 5 : “Quo autem profundius liturgica celebratio percipitur, eo etiam altius verbi Dei momentum aestimatur, quod vero de altera dicitur, de altero rursus affirmari potest, cum utroque Christi mysterium recolatur et proprio utrique modo perpetuetur”.


 

Chúa)45 hay cụ thể hơn, Thánh Kinh yếu tố nền tảng của Phụng vụ (SC 24)46 ; đàng khác, Phụng vụ47  Lời Chúa được công bố, được cầu nguyện, được hiện tại hoá (DV và Phụng vụ), qua việc giải thích (DV 24) qua sức mạnh tác động nội tại của Lời Chúa (DV 21).

Như vậy, việc tìm hiểu “gặp gỡ Lời Chúa” trong Phụng vụ cũng chính xem xét tương quan chặt chẽ giữa Thánh Kinh Phụng vụ. Công đồng đã trình bày tương quan đó vừa phong phú về khía cạnh thần học vừa cụ thể về mặt huấn giáo- mục vụ. Cách riêng, cần ghi nhận một giáo huấn nền tảng rằng, Thánh Kinh Phụng vụ những phần cấu thành của mầu nhiệm cứu độ duy nhất, trong đó con người được thánh hóa Thiên Chúa được tôn vinh (SC 7). Đối với các tín hữu, để việc gặp gỡ Lời Chúa trong Phụng vụ, nhất trong Thánh lễ, đem lại sự tiến triển, sự sống, sức mạnh, sự nâng đỡ đổi


45 Lời Chúa “chuẩn bị” cho phụng vụ được hiểu rằng, nhờ Lời Chúa cộng đoàn tín hữu được quy tụ để cử hành phụng vụ (x. SC 106). Khi Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn được quy tụ, chính Thiên Chúa đang nói với họ (SC 7.33). Lời Chúa nguồn mạch cho các Bài đọc trong phụng vụ (SC 24).

46 hơn thế nữa, Thánh Kinh còn một phần hiển nhiên của khoa phụng vụ. Thật vậy, trong Hội Đồng Giáo Hoàng về cải tổ phụng vụ Commissio piana (1948-1960) do đức Piô XII thành lập, ngoài các nhà phụng vụ, còn có những nhà Thánh Kinh (A. Bea, H. Jenni, B. Botte, H. Kahlefeld).

Trong Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về phụng vụ mục vụ diễn ra tại Assisi (18-22/09/1956), có s tham d ca các nhà phng v (chng hn : A. Jungmann trình bày về “La Pastorale, chiave della storia liturgica”) và những nhà Thánh Kinh (A. Bea nói về “Il valore pastorale della parola di Dio nella liturgia”). X. AA. VV., La restaurazione liturgica nell’opera di Pio

XII. Atti del primo Congresso Internazionale di Liturgia Pastorale (Assisi- Roma, 18-22 settembre 1956) (Genova : Centro di Azione Liturgica, 1957) 35-48 95-112.

47 DV 23 khích lệ việc học hỏi về phụng vụ.


 

mới (DV 21) trong đời sống thiêng liêng, cần phải sự thành kính bên trong cũng như bên ngoài (SC 48), với đức tin sống động lòng hoán cải (x. SC 9), với ý thức sự hiện diện của Chúa Kitô (SC 7), với sự hiểu biết nhất định về Thánh Kinh (DV 23). Tâm tình này cần được tiếp nối bằng việc đọc cầu nguyện với Lời Chúa (DV 25)48, cũng như với ý thức để cho Lời Chúa được thấm nhuần trong cuộc đời bản thân (SC 10).

Để kết thúc, như một diễn tả mới mẻ về tương quan giữa Thánh Kinh Phụng vụ được ghi nhận trong Tông thư Desiderio Desideravi, chúng ta thể nói thêm rằng, việc gặp gỡ Thiên Chúa Đức Kitô trong Phụng vụ49  một vẻ đẹp thực sự của cử hành Kitô giáo (DD 10), một vẻ đẹp khiến chúng ta ngỡ ngàng thán phục (DD 24), như vậy quả là một vẻ đẹp cần được khám phá lại mỗi ngày (DD 21). để được sự khám phá ấy, việc đào tạo đích thực về Phụng vụ, cũng như sự hiểu biết về tầm quan trọng của nghệ thuật cử hành (DD 62) điều cần thiết.


48 Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng đã cụ thể hóa đề xuất của DV 25 qua việc trình bày lectio divina như một cách thức đọc cầu nguyện với Lời Chúa (x. L’interpretazione della Bibbia nella Chiesa, 112-113).

49 đây, chúng ta cũng thể hiểu về việc gặp gỡ Lời Chúa trong phụng vụ, “trong phụng vụ, Thiên Chúa nói với dân Người ; Chúa Kitô tiếp tục loan báo Tin Mừng của Người” (SC 33). Vả lại, chính Chúa Kitô hiện diện trong Lời Người được công bố trong Thánh Kinh (SC 7).

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn