Phụng Vụ Kitô Giáo, Nơi Cử Hành Cuộc Gặp Gỡ

 Fr. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, op.


Phụng vụ việc cử hành ý nghĩa cuộc sống bằng những biểu tượng. Phụng vụ sẽ trở nên nghi thức rỗng hoặc khi lại trở thành những biểu

tượng rỗng, không diễn tả được căn tính của cuộc sống, trở thành những qui định taboo nghĩa áp đặt cách khiên cưỡng lên cuộc sống... Phụng vụ sự sống mối liên hệ mật thiết với nhau, phản ảnh bản chất của nhau, tương tác sức sống cho nhau… cũng thể cùng nhau làm tha hoá chính thân phận con người…

1.- Căn tính của Phụng vụ Kitô giáo

Ý nghĩa căn bản của đức Tin Kitô giáo chính tình yêu và đó thứ tình yêu chân chính trọn vẹn nhất trong mối tương quan ngã vị. Do đó, Phụng vụ Kitô giáo cũng thể gồm tóm lại một cách ngắn gọn ràng : Phụng vụ nơi cử hành những cuộc gặp gỡ. Đó ý nghĩa căn bản của Phụng vụ vấn đề này cũng hàm chứa thách đố căn bản của phận người.

Phụng vụ Kitô giáo luôn bao gồm hai chiều kích “tuy hai mà một” : thờ phượng hiệp thông. Cũng thế, Công đồng


 

Vatican II đã trình bày một cách văn gọn hai ý nghĩa căn bản ấy của thân phận con người :

“Thực vậy, Thánh kinh dạy rằng con người đã được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất để cai trị sử dụng chúng ngợi khen Thiên Chúa (MV 12) […].

“Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên con người độc : bởi vì từ khởi thủy : “Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ” (Stk 1, 2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vây, tự bản tính thâm sâu của mình, con người một hữu thể hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không thể sống phát triển tài năng mình (MV 12).

Phụng vụ việc “cử hành thực tại” bằng những “biểu tượng” nên luôn mang tính “trang trọng”. Biểu tượng được sử dụng để làm toát lên ý nghĩa siêu hình của thực tại, nhưng cũng khi biểu tượng lại che mờ hoặc làm lệch lạc ý nghĩa chân thật của thực tại. Đặc biệt trong lãnh vực phụng vụ, khi mà những biểu tượng luôn phải mang tính “trang trọng” chính sự trang trọng ấy luôn hàm chứa nguy “tự nhìn ngắm chính mình”, đóng khung trong chính mình, chứ không còn hơi ấm của gặp gỡ. Một khi Phụng vụ không còn thực sự là chính “sự gặp gỡ” không còn khai thông cho “cuộc gặp gỡ” rộng mở, tuôn tràn trong thực tại thì Phụng vụ đã đánh mất căn tính của mình. Tóm lại, tính cách “trang trọng” của Phụng vụ thật ra không phải do những hình thức hoành tráng bên ngoài, chính yếu do độ đậm đặc của nội hàm ý nghĩa đích thực.


 

Tạm dùng hình ảnh toán học để diễn tả :

 

 

ngôi vị

A

sự vật trung gian

X

ngôi vị

B

1/

A

X

0

2/

0

X

0

3/

A

X

B

1/ Nếu một hành động hoặc một sự vật nào đó (X) chỉ được giải ý nghĩa hoàn toàn do A, bởi A toàn quyền quyết định, theo kiểu “Luật Ta”, thì khi đó ta nhận ra một thứ văn hoá đe nẹt.

2/ Nếu một hành động hoặc một sự vật nào đó (X) tự đã hoàn toàn đủ ý nghĩa ; A B bắt buộc phải giữ đúng chuẩn mực của X, theo kiểu “Luật Luật”, thì ta nhận ra đây thứ văn hoá sòng phẳng.

3/ Nếu một hành động hoặc một sự vật nào đó (X) được sử dụng được diễn giải ý nghĩa trong mối tương tác thuận thảo giữa A B, theo kiểu “Luật do Ai Ai”, ta nhận ra một nền văn hoá tôn trọng.

Trong ba tình huống ấy, ta chỉ thấy tình huống thứ ba mới thực sự cho yếu tố X trở nên sự gặp gỡ khai mở một cuộc gặp gỡ phong phú.

nhiên, đó chỉ một cách diễn tả rất khái lược nếu ta biến thành như một công thức toán, hoặc phổ quát trong mọi lãnh vực thì chắc chắn sẽ rơi vào những sai lầm nguy hại. Tuy nhiên, cách trình bày ấy thể giúp chúng ta phác thảo một dáng dấp đặc trưng của sự sống Kitô giáo soi sáng phần nào để nhận ra căn tính Kitô giáo trong mọi vấn đề. Một lần nữa, chúng ta thử đọc lại bản văn của Vatican II trong Hiến Chế Mục Vụ :


 

“…trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại. Điều này chính Chúa đã ám chỉ khi Người nói rằng ngày nghỉ được lập ra vì con người chứ không phải con người được dựng nên ngày nghỉ (x. Mc2,27) (MV 26, c).

Như thế, ta thể ghi nhận một vài nguy trong Phụng vụ Kitô giáo, khi hoặc chính những nghi thức không còn diễn tả được sự gặp gỡ ; hoặc người cử hành cũng như người tham dự Phụng vụ không còn cảm nhận bộc lộ được độ đậm đặc của ý nghĩa gặp gỡ

Những nguy này thật ra không phải chỉ chuyện cá biệt của ai đó, cũng không phải chỉ vấn đề của một giới hay một hoàn cảnh nào, nhưng những nguy gốc rễ từ “thách đố muôn thuở của phận người”. Bởi Phụng vụ chính là biểu tượng của sự sống, Phụng vụ như một món quà của Thiên Chúa ban tặng1, thì con người đón nhận vẫn luôn có nguy làm biến chất căn tính của quà tặng ấy. Một khi nhận ra những nguy của Phụng vụ xuất phát từ thách đố muôn thuở của phận người, chúng ta hiểu rằng lệch lạc trong Phụng vụ lệch lạc trong sự sống gắn liền với nhau, điều này tác động lên điều kia, việc sửa điều kia cũng thể điều chỉnh được điều này… ; tựa như sửa tính tình thì thể sửa chữ viết và sửa chữ viết cũng thể góp phần sửa tính tình ; hoặc giữ khiết tịnh thì phải tôn trọng con người việc tôn trọng con người giúp giữ khiết tịnh…

 

1 X. Linh mục Edward McNamara, Đức Bênedicto XVI : Những Nguyên tắc Căn bản của Phụng vụ, Nữ tu Anna Ngọc Diệp, op, Đa Minh Thánh Tâm chuyển ngữ.


 

2.- Trên nền tảng linh đạo “sống với ai”

Đường nét đặt trưng căn bản của Kitô giáo, cùng với hai tôn giáo ngôn sứ khác cùng phát xuất từ dòng dõi Xê-mít, Do Thái giáo Hồi giáo, chính linh đạo “sống với ai”. Các tôn giáo khác thuộc về linh đạo “sống thế nào”. Linh đạo “sống với ai” đặt ý nghĩa cũng như vận mạng của toàn bộ cuộc sống vào mối tương quan ngã vị. Đây loại “tôn giáo ngôn sứ” tin tưởng rằng Thượng Đế muốn cứu độ con người bằng cách trao ban các vị ngôn sứ để đồng hành trợ giúp con người. Nguyên cứu độ này khác với các “tôn giáo khôn ngoan”, vốn chủ trương Thượng Đế hay thần thánh Đấng “dạy ta ăn ngay lành”…

Đặc biệt Kitô giáo trình bày Thiên Chúa tình yêu, và con người được sáng tạo nên “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nên con người cũng chỉ thể tìm thấy ý nghĩa của sự sống và khả năng hoàn thành vận mạng cuộc đời trong tình yêu. Tình yêu chính ý nghĩa căn bản của cuộc sống, như đức Gioan Phaolô II đã từng nói :

“Điều tôi đã viết trong Thông điệp “Đấng Cứu Chuộc Con Người” (s.10) được áp dụng độc đáo và ưu tiên trước hết nơi gia đình : “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất ý nghĩa nếu không nhận lấy mặc khải về tình yêu, nếu không có kinh nghiêm về tình yêu và nếu không nhận lấy kinh nghiệm ấy làm của mình và hăng say dự phần vào đó”. (Tông huấn Gia Đình, số 18).

Như thế, trong sự sống Kitô giáo, điều hiển nhiên là đường nét “sống với ai” thực sự linh đạo căn bản của đời sống con người. Chính thế, Đức J. Ratzinger nói con người


 

hữu thể sống “bởi” sống “cho”2 Ta thể tìm thấy thật nhiều dẫn chứng trong Kinh thánh về ý nghĩa căn bản của linh đạo “sống với ai” như thế.

Sống với ai linh đạo căn bản của phận người được sáng tạo nên “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nên phẩm tính ấy cũng phải thấm nhuần trong tất cả ý nghĩa của toàn bộ từng thành phần trong sự sống con người, chẳng hạn :

-  Ý nghĩa căn bản của lời nói không phải nói cái nói với ai ;

-   Ý nghĩa căn bản của việc làm không phải sản xuất ra cái hành động diễn tả bản thân mình chuyển tới ai khác ;

Hơn nữa, trong mọi lãnh vực khác của cuộc sống, ý nghĩa nhân bản Kitô giáo cũng luôn phải hàm chứa đường nét căn bản “với ai” như thế : niềm vui, nỗi buồn, hy vọng, hoặc việc học hành, vui chơi, giải trí…tất cả đều nằm trong nền tảng của mối tương giao ngã vị…

2.1.- Nguy cơ dừng lại nơi sự vật

Trình thuật cám dỗ trong sách Sáng Thế chính bước đi lệch lạc căn bản của nguyên tổ, cũng cám dỗ căn bản của con người nói chung, đó từ chối nẻo đường sống trung tín với Chúa, để chọn phương cách hoàn thành cuộc đời mình bằng thái độ tự tin vào trí của mình. Điều đó không khác hơn một sự chuyển đổi từ linh đạo “sống với ai” trở thành linh đạo “sống thế nào”.

 

2 X. J. Ratzinger, Đức Tin Kitô giáo, Hôm qua và Hôm nay, bản dịch của linh mục Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam, NXB Tôn Giáo, Hà Nội – 2009, tr. 195-199.


 

Quả thật “sống với ai” luôn khó khăn đó một hành trình chưa một đáp án cũng không một thứ “công thức có sẵn” luôn luôn đúng… Nẻo đường “sống với ai” một cuộc phiêu lưu, một thái độ luôn cần phải sáng tạo, “điểm qui chiếu” cho những chọn lựa không phải chỉ những quy định rõ ràng, những “chuẩn mực”. Trong thái độ sống với ai, người ta như thể không còn quyền tự quyết về vận mạng của mình, nhưng tùy thuộc vào phẩm tính của cuộc gặp gỡ…

Chính đây thách đố của “tội tổ tông”, mặt trong mọi thứ lệch lạc hỏng của bản chất người ẩn khuất dưới nhiều góc cạnh trong cung cách sống của con người, đến độ nhiều khi ta thấy những cách sống đánh mất linh đạo căn bản nhưng lại được nhiều người đánh giá siêu thoát hoặc anh hùng ; cũng như nhiều cách thức được coi khôn ngoan trong thế giới hiện đại không đạt đến được ý nghĩa sống với như khát vọng chân thật căn bản của phận người… Thách đố ấy chắc chắn cũng ẩn khuất trong việc cử hành Phụng vụ Kitô giáo.

Một nguyên nhân của sự chuyển đổi từ linh đạo “sống với ai” sang linh đạo “sống thế nào”, đó con người khao khát giành một chút quyền chủ động, giành lại cho mình quyền quyết định đúng sai của sự việc.

Chẳng hạn Dân Israel được Chúa gọi được thánh hoá thành Dân riêng của Chúa. Tính chất thánh thiện của Dân Chúa được biểu lộ trong vai trò tế được gìn giữ trong dòng tộc Lê-vi. Đức Hồng y Albert Vanhoye nói : “Truyền thống tế giữ một vai trò quan trọng nhất. Chức tư tế hẳn nhiên là một trong những phương diện chính yếu của mặc khải Kinh Thánh. Điều này ắt phải có vì ơn gọi của Israel là trở nên Dân Thiên Chúa và chức năng của tư tế chính là để bảo đảm cho có được mối tương


quan giữa dân với Thiên Chúa”3. Tuy nhiên, các tế Cựu Ước, con người của các hy lễ trong đền thờ, thực hiện việc tế tự trong toàn bộ một hệ thống nghi thức thanh sạch, khiến cho việc tế tự chỉ hoàn toàn dựa theo các chuẩn mực bên ngoài mà không mối liên hệ nào với tấm lòng. Hồng y Vanhoye nhận xét rằng :

“Trong Cựu Ước, trái tim của nhà vua thường được nói đến […]. Còn trái tim của vị tư tế thì ngược lại, không bao giờ được nhắc đến ; việc phụng tự cổ xưa không có một mối tương quan nào với trái tim. Lề luật quy định việc phượng  tự ; việc phụng tự được thực hiện nhờ những nghi thức có tính cách quy ước, bề ngoài ; những việc sát tế các súc vật phải được dâng tiến. Vị tư tế phải chu toàn những lễ nghi   và không còn gì hơn nữa”4.

Chúng ta cũng thấy thái độ khăng khăng với lề luật của người Biệt phái, hoặc thái độ lấy hoàn cảnh sung túc trong đời sống hội của mình để biện minh cho đời sống tôn giáo nơi nhóm Xa-đốc cũng những biểu hiện của thái độ dừng lại nơi sự vật…

Người Việt thường nói “của cho không bằng cách cho”, nhưng thật ra “của cho” hay “cách cho” cũng chỉ những thứ trung gian thôi. Tuy nhiên, một người thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, được dìm trong bầu không khí Phụng vụ đặc trưng Kitô giáo, đáng lẽ phải nhạy bén để nhận thấy “của cho” hay “cách cho” đều không quan trọng bằng “Ai cho” “cho Ai”…


3 Hồng y Albert Vanhoye S.J. , Chúng ta hãy Tin Tưởng Đón Nhận Đức Kitô, Vị Thượng Tế của chúng ta, Các Bài giảng tĩnh tâm mùa Chay tại giáo triều Roma, 10-16 tháng 02 năm 2008. Bản dịch của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam 2016, tr. 36-37.

4 Hồng y Albert Vanhoye S.J, sđd., tr. 185-186.


 

Thế nhưng, trong Phụng vụ Kitô giáo hiện nay, ta vẫn thấy ý nghĩa “làm cái gì”, “nói cái gì”, “làm thế nào” cho đúng…lấn lướt ý nghĩa “từ Ai đến Ai”. nhiên ta không được quyền xét đoán về lương tâm bên trong của nhân người cử hành hoặc người tham dự, nhưng ít ra ta vẫn quyền nhận định rằng những cung cách bên ngoài, những lời đọc và những cử điệu phụng vụ, khó làm chứng cho người khác về phẩm tính “nói với ai” hay “hành động cho ai”. Mặt khác, ta cũng quyền phê bình nhiều bản dịch phụng vụ, bản chất là những lời cầu nguyện, nhưng lại không được cấu trúc bình thường của lối văn nói với, diễn tả thái độ nói với Chúa, nhưng lại trở nên như những bài suy luận “nói cái gì”. Nhất trong tinh thần ngôn ngữ Việt, vốn không cấu trúc văn phạm chuẩn xác tinh tế, thì lời cầu nguyện nên phải lập lại chủ từ hoặc động từ, làm sao gắn liền được chủ từ, động từ túc từ…, tránh bớt những mệnh đề phụ xen kẽ,… Hoặc trường hợp danh xưng Chúa được hiểu chung cho cả Ba Ngôi… khiến nhiều khi chính người đọc, bản văn trước mặt, cũng không nhận ra mình đang nói với Chúa nào… ; nhiên người nghe thì không thể nào hiệp thông vào những lời cầu nguyện “nói với ai” như thế…

Khi lời cầu nguyện không còn diễn tả được tính chất nói- với-ai, khi cử điệu Phụng vụ không còn diễn tả được tính chất hành-động-cho-ai…, thì sự trang trọng hay hoành tráng càng dễ làm mất đi căn tính đích thực của Phụng vụ như nơi gặp gỡ. Điều đó không khác người nội trợ bận tâm làm một món ăn ngon ; quá thú vị với thành quả ấy nên đặt trong tủ kính, thắp đèn cho sáng để chiêm ngắm không cho ai được động vào…


 

2.2.- Nguy cơ tắc nghẽn tương quan vì sợ hãi

Cựu Ước nhấn mạnh đến vai trò tế với tính cách căn bản sự tách biệt, nghĩa cần một sự thánh hoá theo nghi thức để được “nâng cao lên”… Lối nhìn của Cựu Ước chỉ đặt mối tương quan của tế với Thiên Chúa, trong một vài bản văn Cựu Ước, ta thấy điều đòi hỏi nơi vị tế sự nghiêm khắc đối với tội nhân, bởi sự thánh thiện thì không thể nào đi đôi với tội lỗi, tội nhân vốn được coi như địch thủ của Thiên Chúa… Đường nét này trong Cựu Ước khiến cho ta thấy hình ảnh các tế mang dáng vẻ khắc nghiệt, thậm chí tàn bạo đối với tội nhân, chẳng hạn trình thuật về cuộc thảm sát sách Xuất Hành, chương 32,29, hoặc thái độ của tế Pin-Khát trong sách Dân số, chương 25,6-12, hay thái độ của vị tế và thầy lêvi đối với người bị cướp dọc đường trong Luca, chương 10,29-37…

Kitô giáo lại chính sự chuyển biến từ khuôn mặt một Thiên Chúa quyền năng nhiều nét “đáng sợ” để lộ diện một Thiên Chúa nhân từ yêu thương. Nét chuyển biến này được thể hiện nơi đức Giêsu, Đấng mặc khải Lòng Thương Xót của Chúa Cha, Đấng trở nên Vị Mục Tử Nhân Lành đưa đến hoa trái làm nên dung môi căn bản của Nhiệm Cục Mới, đó Thần Khí Nghĩa Tử.

Thần Khí chính mối tương quan đúng đắn chân thật giữa Chúa Cha Chúa Con, sự “gặp gỡ” vừa tạo nên sự hiệp nhất bản tính lại vừa bảo đảm nét độc đáo của tính ngôi vị. Cũng vậy, Thần Khí Nghĩa Tử giúp người Kitô hữu vượt qua các sự vật trung gian để đi đến sự gặp gỡ ngôi vị : “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành lệ phải sợ sệt như xưa,


 

nhưng Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên : “Áp-ba ! Cha ơi !” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta con cái Thiên Chúa.” (Rm 8,14-16).

Thần Khí Nghĩa Tử, Đấng thánh hoá từ bên trong, Đấng soi sáng lương tâm, ban tặng sự tự do của con cái Chúa : “Chúa Thần Khí, đâu Thần Khí của Chúa, thì đó tự do” (2Cr 3.17). Sự tự do ấy giúp người Kitô hữu khả năng đánh giá sự vật vượt trên những quy định thuần tuý luật pháp bên ngoài, vượt qua những yếu tố trụ để đạt tới ngôi vị khác :

“Tôi thiết nghĩ : bao lâu người thừa kế còn thiếu niên thì không khác một lệ, mặc chủ mọi tài sản. phải dưới quyền những người giám hộ quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định. Chúng ta cũng vậy, khi còn thiếu niên, chúng ta phải làm lệ những yếu tố của trụ.[…].

Trước kia, khi chưa biết Thiên Chúa, anh em làm nô lệ những vật tự bản chất không phải là thần. Nhưng nay anh em đã biết Thiên Chúa, hay đúng hơn được Thiên Chúa biết đến, làm sao anh em còn trở lại với những yếu tố bất lực và nghèo nàn ấy, còn muốn làm lệ chúng một lần nữa ? Anh em cẩn thận giữ ngày, giữ tháng, giữ mùa, giữ năm ! Anh em làm tôi sợ rằng tôi đã vất vả uổng công anh em ! (Gl 4,1-3.8-11).

nhiên, không được đẩy cách nói khá mạnh của thánh Phaolô đến mức độ loại trừ mọi qui định, làm cái này bỏ cái kia, như Chúa đã từng nói : “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23). Nhưng cách thức cử hành mọi trong đức ái : “Được phép làm mọi sự” ; nhưng không phải mọi sự đều ích. “Được phép làm mọi sự” ; nhưng không phải mọi sự đều tính cách xây dựng” (1Cr 10,23).


 

Nguy thứ hai này cũng giống tương tác với nguy thứ nhất, chính người ta cảm thấy ai đó một “ai đe doạ” chứ không phải một “ai cảm thông”. Một khi cảm thấy cần phải đối phó với ai đe doạ, người ta sẽ tìm sự an toàn bằng cách qui chiếu hành động lời nói của mình vào tính hợp lý, hợp pháp… ; giống như một mục tử nhận ra mình không được lòng con chiên thì thế nào cũng bám vào luật lệ chỉ dùng tiêu chuẩn luật lệ để giải quyết mọi tình huống… Cũng thế, đứng trước một Thượng Đế đe doạ, người ta chỉ còn biết tập trung vào những sự vật trung gian mình thể tự quyết định, tin vào chuẩn mực luân của chính mình hoặc “trọng lượng” của lễ vật.

Ta cũng thấy trong đời sống Giáo hội cũng như trong phụng vụ, chiều kích danh giá vẫn cứ luôn một chuẩn mực lớn ; người ta quan trọng hoá quá đáng tính long trọng của lễ nghi những hình thức bên ngoài. Thánh lễ đồng tế được mọi người, cả các đấng bậc, xếp vào bậc thang danh giá (lễ an táng của các ông cố…), lễ đức cha, hoặc nhiều đức cha, lễ nhiều linh mục đồng tế… trở thành những tiêu chuẩn long trọng chứ không thấy ý nghĩa của sự hiệp thông…

2.3.- Nguy cơ thiết lập mối tương quan hời hợt

Kitô giáo đạo của tình yêu, nhưng đó thứ tình yêu trao tặng lãnh nhận ngôi vị, gồm chứa cả bản thân cuộc đời của nhau. Trong nhiệm cục Kitô giáo, bất cứ một hoạt động thờ phượng nào cũng phải dựa trên nền tảng các nhân đức đối thần, nghĩa là các nhân đức nhằm đến “chính-Chúa”. Tin không phải chỉ tin Chúa ; cũng không phải chỉ tin vào quyền năng tình yêu. Tin chấp nhận bản thân của nhau, với tất cả những làm nên phẩm tính ngôi vị của nhau. Tin không phải một sự cân nhắc mua bán, đặt tha nhân lên


 

bàn cân để tính toán, nhưng sống với một ngôi vị cụ thể, có ý muốn, trí tự do. Tin cũng nghĩa khẩn cầu nhau như những ngôi vị không thể thay thế. Do đó, nếu không có đức Tin như sự tôn trọng đón nhận chính ngôi vị của Chúa, thì đức Mến giống như yêu con thú cưng, đức Cậy trở nên sự dựa dẫm vào một kho bạc.

Nhiệm cục cứu độ Kitô giáo luôn hàm chứa một chiều sâu của sự ban tặng ngôi vị như thế. Ngay trong Cựu Ước ta đã thấy những bước khởi đầu như thế :

-  “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)” (Đnl 6,4-5) ;

-  “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn được của lễ toàn thiêu” (Hs 6,6).

-  “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu : Này đây người thiếu nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên Em-ma-nu-en” (Is 7,14).

Để rồi trong Tân Ước, nhiệm cục ấy được thể hiện một cách trọn vẹn :

-  “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).

-  “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con. (Dt, 10, 5-7).

Thực sự, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã giao ước với Dân của Ngài Ngài đã đi vào mối tương giao thân tình với Dân.


 

Nhưng nhiệm cục ấy, từ Cựu Ước sang Tân Ước, thật sự một sự dấn thân sâu xa hơn để một sự gặp gỡ căn để hơn :

“Này sẽ đến những ngày, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuda một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập ; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa tể của chúng, sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó, sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm  khảm chúng lề luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta. Chúng không cần phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia :“hãy học cho biết Đức Chúa”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta, sấm ngôn  của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội cho chúng không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31,34).

Ta thể thấy đường nét này trong sự chuyển hướng cách trình bày bản chất của mạc khải của Thiên Chúa trong Công Đồng Vatican II. Bổ túc cho quan điểm mặc khải khách thể như trước đó, Hiến Chế Tín về Mạc Khải đã trình bày quan điểm mặc khải chủ thể như đường nét căn bản ; điều chính yếu không phải Thiên Chúa mạc khải những chân bất khả ngộ, nhưng mạc khải chính bản thân :

“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (x. Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Ep 2,18 ; 2P 1,4). Trong việc mạc khải này, với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình (x. Cl 1,15 ; 1Tm 1,17) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (Ga 15,14-15),


 

Ngài đối thoại với họ (x. Br. 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài” (MK 2a)5.

Công cuộc mạc khải này, Thiên Chúa thực hiện bằng hai cách, lời ngỏ hành động. Cần lưu ý rằng lời ngỏ thì khác với những lời “nói đông đổng” hành động thì khác với việc làm. Lời ngỏ hành động cách thức bộc lộ bản thân, chuyển giao chính bản thân mình, thông qua lời nói việc làm, để chuyển cái tôi ấy tới ai khác.

“Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời sự viên mãn của toàn thể mạc khải” (MK 2a).

Phụng vụ Kitô giáo chắc chắn hàm chứa thực tại ý nghĩa căn bản như thế, nên ta hiểu một cách nào đó, sau biến cố Abraham định sát tế Isaác, Thiên Chúa đã ngăn cấm mọi hành vi sát tế người cho Chúa, để rồi đỉnh cao của nghi lễ Vượt Qua, chính Thiên Chúa đã muốn “sát tế” Con Một của Ngài để cứu độ con người. Chính thế Hy tế Thập Giá, Thánh Thể luôn luôn trung tâm của Phụng vụ Kitô Giáo ; hay nói cách khác, tất cả Phụng vụ tích Kitô giáo luôn chỉ một tiến trình duy nhất từ Tích Rửa Tội (Nước) cho đến Tích Thánh Thể (Máu). Đó không khác hơn tiến trình của Sự Sống trở nên trọn vẹn trong Cái Chết Sống Lại, tiến trình từ “nước” như

 

5 X. MK 21a : “Thực thế, trong các sách Thánh, Chúa Cha trên trời, bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình ngỏ lời với họ”.


 

nền tảng của sự sống đến “máu” như sự thành toàn trọn vẹn của sự sống trong tình yêu chân thật nhất.

Quả thật mối tương giao với Chúa không bao giờ được dừng lại mức độ lễ nghĩa nhưng phải đạt đến mức độ của tình thân ; cũng không phải thứ tình thân thời vụ, nhưng đụng đến tầng sâu của thực tại thuộc về nhau… Do đó, Phụng vụ Kitô giáo, Phụng vụ tích hoặc những nghi thức của lòng sùng mộ, vẫn luôn hàm chứa một sự trọn vẹn của tình nghĩa, thể hiện trong cả thể xác, tinh thần trọn cả cuộc đời. Như thế, Phụng vụ như những cử hành “văn hoá nhịp” hoặc “văn hoá ướm” thì đều những thời điểm những tình tiết gắn liền với toàn thể vận mạng của người tín hữu.

Khi ý nghĩa này của Phụng vụ Kitô giáo không được thấm nhuần, người ta sẽ tình tách rời cuộc sống thường ngày khỏi các nghi thức phụng vụ. Người ta cử hành hoặc tham dự Phụng vụ chỉ như một phần thánh thiêng chơi vơi ; người ta bận tâm về nghi lễ ít nhạy bén với cuộc sống, người ta không thấy được Phụng vụ tác động đến thân phận toàn vẹn của con người. Quả thật, một đất nước nhiều điều “tế nhị” dính dáng tới khía cạnh chính trị cũng đã làm cho đời sống đức Tin nói chung của Giáo hội, đặc biệt trong sinh hoạt phụng vụ, trở thành một thứ “đạo thiêng liêng”.

3.- Chiều dọc và chiều ngang

Phụng vụ Kitô giáo luôn bao gồm hai chiều kích “tuy hai một” : thờ phượng hiệp thông. Chính cái Chết của Đức Giêsu đã giao hoà con người với Thiên Chúa Cha quy tụ nhân loại nên một ; nên chiều dọc của việc thờ phượng Chúa chiều ngang của sự hiệp thông đã luôn gồm chứa trong nhau.


 

Nếu so sánh nghi lễ Giao Ước trên núi Sinai với Giao Ước Thánh Thể, ta thấy Giao Ước nổi bật chiều dọc. Sách Xuất Hành, chương 24, cho thấy ông Môsê đọc sách Giao Ước cho Dân Dân chấp nhận... Ông Môsê lấy máu rẩy trên Dân… Đó hoàn toàn mối tương quan chiều dọc giữa Chúa với Dân. Trong khi đó, trong bữa Tiệc ly, chiều kích chiều ngang lại được biểu lộ một cách ràng phong phú. Trong bữa Tiệc Ly, đức Giêsu diễn tả chiều dọc chỉ trong một từ duy nhất “khi đã tạ ơn” (eukharistêsas), một lần trên bánh một lần trên rượu ; rồi sau đó một sự phong phú thân tình được triển nở qua việc bẻ bánh, trao ban ; qua việc cùng thông chia một chén rượu với nhau. Chiều ngang như thế được diễn tả trong bối cảnh một bữa ăn, bối cảnh của sự hiệp thông huynh đệ con người. Rồi Ngài diễn tả sự hiệp thông huynh đệ ấy, một cách mạnh mẽ sâu sắc nhất, không phải lấy máu rẩy xuống, nhưng trao máu cho nhau để uống… việc ăn thịt uống máu như thế tạo nên một sự lại trong nhau cách thân mật tuyệt vời6

Đức Giêsu, nhiên không từ bỏ chiều dọc vốn luôn là chiều kích căn bản, những Ngài làm cho chiều dọc ấy trở nên cội nguồn sự sống phong phú biên trong chiều ngang, trong tình huynh đệ của những người anh em của Chúa Giêsu.

Mặt khác, Tin mừng Matthêu ta thấy hai lần (Mt 9,13 và 12,7) dẫn lời của ngôn sứ Hôsê 6,6 : “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế…” để cho thấy chiều hướng chính yếu trong thái độ của Thiên Chúa, chiều hướng cúi xuống, chiều hướng tuôn trào một tình yêu quảng đại, tha thứ đến cùng đáy của thân phận con người. Như thế, Phụng vụ Kitô giáo không chỉ nơi gặp gỡ với Chúa, nhưng còn nơi nối kết sự hiệp thông sâu


6 X. Hồng y Albert Vanhoye S.J. Sđd., tr. 107-109.


 

xa giữa con người với nhau không ngừng mở rộng để bao gồm tất cả sự sống của cõi nhân sinh.

Chúng ta thấy thực tế chính ngôi thánh đường cũng như những nghi lễ hiện nay quá nghiêng lệch về chiều kích thờ phượng gần như đánh mất, ít trong cách diễn tả, chiều kích hiệp thông.

Tạm kết

Đức Joseph Ratzinger, khi đọc tác phẩm “Tinh Thần Phụng Vụ” của Romano Guardini, đã khám phá ra Phụng vụ “là một khám phá về một thế giới mới, về Phụng vụ đích thực…về Phụng vụ như một thế giới biểu tượng chứa đầy thực tại ý nghĩa”7. Quả thật Phụng vụ một thế giới biểu tượng chứa đầy thực tại ý nghĩa… đó một khám phá về một thế giới mới.

Nhưng ta thể thắc mắc : phải chăng chính ngài, J. Ratzinger, khi chưa đọc tác phẩm của Guardini, đã chưa nhận ra Phụng vụ gồm chứa đầy thực tại ý nghĩa ? phải chẳng có biết bao người Kitô hữu, biết bao các linh mục tu sĩ, cả một đời cử hành tham dự phụng vụ, vẫn không nhận ra thế giới mới ấy chứa đầy thực tại ý nghĩa ?

Phải chăng Phụng vụ Kitô giáo cũng rơi vào tình trạng nan giải đức J. Ratzinger, lấy lại chuyện ngụ ngôn của Kierkegaard, để diễn tả về tình trạng ngôn ngữ thần học Kitô giáo nói chung : một anh hề, kêu gọi người ta đến chữa cháy cho đoàn xiếc (thực tại) trong một bộ áo hề (ngôn ngữ thần

 

7 Linh mục Edward McNamara, Sđd.


học) người nghe đã không làm sao nối kết được lời kêu gọi của anh với thực tại, để đến cứu cho đoàn xiếc khỏi cháy ?8

Quả thật Phụng vụ Kitô giáo, trong ngôn ngữ biểu tượng, hàm chứa một kho tàng mênh mông, bao gồm tất cả trụ cũng như tất cả Nhiệm Cục Cứu Độ. Đức J Ratzinger cho thấy Phụng vụ như Quà Tặng của Thiên Chúa, như hiện thân của mầu nhiệm Đức Kitô, mang chiều kích trụ thời gian, mang chiều kích Giáo hội chiều kích Cánh Chung. Nhưng trong thực tế, phải những thực tại ý nghĩa ấy vẫn bị che khuất bởi bộ áo diễn tuồng ?

Đức hồng y A. Vanhoye S.J. thì cho rằng những nghi lễ có tính tích của việc thánh hiến giám mục truyền chức linh mục, một ý nghĩa hiệu lực nhờ được đặt trong mối tương quan với việc thánh hiến tư tế của Đức Kitô, việc thánh hiến được thực hiện nhờ vào sự vâng phục của tình con thảo và tình liên đới huynh đệ…. Những nghi lễ luôn luôn là cần thiết, xét một cách nào đó, nhưng chúng ta cần phải xem hiệu lực của những nghi lễ ấy là gì : những nghi lễ ấy có đặt chúng ta ra để thực hiện mối tương quan hay lại đặt chúng ta ra ngoài mối tương quan9.

Hình như Phụng vụ Kitô giáo gồm một “số vốn” cùng phong phú do Thiên Chúa tặng ban, nhưng Giáo hội bao nhiêu Kitô hữu vẫn loay hoay không làm sao “giải ngân” được.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn